Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

FITHOU - 20 năm nhìn lại (1)

Những chặng đường
tiến đến kỷ niệm 20 năm xây dựng và phát triển
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN – ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
FITHOU

Đây không phải là một bản báo cáo tổng kết nhàm chán hay là những trang sử biên niên khô khan thông thường . Đây là những hồi ức cá nhân  được ghi lại về những kỷ niệm, những sự việc, những câu chuyện đã xẩy ra, trộn với những suy nghĩ riêng tư của tác giả trong những ngày đã sống, đã làm việc, đã yêu thương, đã căm ghét, đã vui và đã buồn trong 20 năm qua dưới mái nhà thân yêu của Khoa Công nghệ Thông tin – Viện Đại học Mở Hà Nội  – với phương châm là chuyện vui thì cố nhớ, nhớ nhiều và nhớ lâu hơn còn chuyện buồn thì gắng mà quên bớt –
1993 – 2013: Hai mươi năm! Một đời người có được bao nhiêu lần 20 năm???

Ңеқоґда! Ңекоґда !
Я никогда не забуду этот сладкие воспоминания долгое время.

Thái Thanh Sơn



GS THÁI THANH SƠN
Chủ nhiệm Khoa đầu tiên của FITHOU

Sau 30 năm của hai cuộc chiến tranh 1945 -1975, tiếp đó là hệ quả nặng nề của hơn một thập kỷ cấm vận của đế quốc Mỹ và phe lũ, vào khoảng đầu những năm 80 của Thế kỷ trước, đất nước chúng ta đang ở một tình trạng cực kỳ khó khăn về phát triển kinh tế, xã hội. Do những điều kiện lịch sử, Việt Nam lúc đó ở vào một vị thế tách rời với cộng đồng thế giới đang phát triển bùng nổ trong thời kỳ của Nền kinh tế mới – Nền kinh tế Thông tin, nền kinh tế Tri thức, nền kinh tế Số.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi vào văn kiện luận điểm quan trọng về phát triển kinh tế tri thức (KTTT) với tư cách là một yếu tố mới cấu thành đường lối Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước.
 Đại hội XI Đảng CSVN tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển KTTT...”. Điều đó thể hiện sự nhất quán, tầm nhìn xa và tính nhạy bén của Đảng về vấn đề này.
Cho đến những ngày đầu bước vào thời kỳ của công cuộc ĐỔI MỚI, đội ngũ trí thức của chúng ta, bao gồm cả những người được đào tạo trong nước  và ở các nước XHCN Đông Âu cũ cũng như một số rất ít trí thức trước CM Tháng 8 và những người được đào tạo trong chế độ cũ ở Miền Nam trước ngày giải phóng, đã thực sự không còn đáp ứng được cho nhu cầu phát triển nhanh chóng của công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa trước mắt, về mặt số lượng và cả về một số khía cạnh nào đó của mặt chất lượng.
Nhà nước nói chung và ngành Giáo dục – Đào tạo nói riêng cần tìm đến những đường lối, những phương thức đào tạo mới.
Một trong những thể hiện của đường lối đó của Nhà nước là Quyết định số 2236/TTG của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 17/02/1990, thành lập Viện Đào tạo Mở rộng I ở Hà Nội và Viện Đào tạo Mở rộng II ở TP Hồ Chí Minh.
Đây là hai tổ chức  đào tạo sau Trung học (Tertiary Education) được giao nhiệm vụ tìm tòi, nghiên cứu phương thức hoàn toàn mới nhằm có thể đáp ứng cho nhu cầu NÂNG CAO DÂN TRÍ, ĐÀO TẠO NHÂN LỰC của Thời kỳ đổi mới.
·       Phần I: BƯỚC ĐẦU CHẬP CHỮNG (1992 – 1993)
Trong năm đầu tiên sau khi thành lập, Viện ĐTMR I thử nghiệm tổ chức một vài Trung tâm – thiên về mặt dạy nghề - đào tạo cán bộ trình độ sơ/trung cấp cho một số “NGHỀ” đang có nhu cầu thực tiễn nóng : Trung tâm Tiếng Anh, Trung tâm Tin học và Trung tâm sửa chữa cơ khí.
Trung tâm Tin học, được “ưu tiên trang bị” 5 chiếc máy tính XT “Quả táo” (không có ổ cứng) do Cô LÊ HỒNG NGA, nguyên đại úy thuộc Tổng cục Thông tin chuyển ngành phụ trách. Trước mắt, học tập kinh nghiệm của Trung tâm Tin học ở Đại học Bách khoa HN và một số Trung tâm dạy nghề của Hội Tin học Việt Nam, Trung tâm Tin học Viện ĐTMR I đã đào tạo được một số khóa học viên biết một số kiến thức cơ bản về Tin học văn phòng: sử dụng hệ điều hành MS DOS, soạn thảo văn bản bằng BKed, sử dụng hệ quản tri Cơ sở dữ liệu FOXBase, sau đó tiến lên FOXPRO, dùng bảng tính Lotus 123…thời gian đào tạo mỗi khóa từ 3 đến 6 tháng.
*Năm 1992, Bộ GD-ĐT điều động PGS-TS NGUYỄN KIM TRUY nguyên Chủ nhiệm Khoa Kinh tế Hóa chất ĐHBKHN về làm Viện trưởng Viện ĐTMR I khi Viện trưởng đầu tiên là  Kỹ sư TRẦN ĐÌNH TÂN nghỉ hưu. Để tăng cường năng lực cán bộ về các ngành khoa học và công nghệ, Viện trưởng Nguyễn Kim Truy, bằng quan hệ của mình với ĐHBK Hà Nội và với bạn bè trong giới khoa học, đã đề xuất và được  Bộ GD-ĐT cũng như trường ĐHBK và các cơ quan hữu quan khác chấp thuận biệt phái  GS - TSKH LÊ VĂN NHƯƠNG, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ sinh học và PGS-TS THÁI THANH SƠN, Phó Giám đốc Đại học Đại cương, TS Nguyễn Văn Thanh, Phó Chủ nhiệm Khoa Kỹ sư kinh tế của ĐHBKHN, PGS-TS VŨ TIẾN CẢNH, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, TS HỒ PHONG TƯ và TS NGUYỄN VĂN LUẬT, cán bộ cao cấp thuộc Văn phòng chính phủ, và PGS-TS NGUYỄN NGỌC DŨNG ở Trường Văn hóa nghệ thuật… sang công tác kiêm nhiệm ở Viện Đào tạo MR I nhằm chủ trì chuẩn bị xây dựng một số ngành học về công nghệ ở bậc đại học.
*Hai cán bộ đầu tiên của Khoa Tin học được PGS Thái Thanh Sơn nhận về là Cao Mạnh Toàn, nguyên đại úy, giáo viên của một trường kỹ thuật trong quân đội, đã chuyển ngành về Đại học đại cương ĐHBK Hà Nội rồi từ đó chuyển sang và Nguyễn thị Thanh Thủy, sinh viên giỏi tốt nghiệp từ Đại học Thăng Long - hồi đó là một Trung tâm đại học ngoài công lập duy nhất tại Việt Nam do Hội trí thức người Việt tại Pháp đỡ đầu, do đó  có cơ sở thực tập máy tính vào loại rất tốt so với nhiều trường công lập đồng thời. Hai người này mãi về sau vẫn là những cán bộ cốt cán, đảm nhiệm khâu quản lý đào tạo và quản lý sinh viên trong Khoa
*Thành công quan trọng đầu tiên của Khoa CNTT sau này là đã vận động và mời được một số nhà khoa học hàng đầu Việt Nam thời đó trong các lĩnh vực: Công nghệ thông tin, Toán kinh tế và Quản lý về tham gia Hội đồng Khoa học và Đào tạo khóa I gồm:
1.  Cố vấn khoa học :                GS-TSKH PHAN ĐÌNH DIỆU, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Nhà nước, Viện trưởng Viện CNTT
2.  Chủ tịch                              PGS-TS THÁI THANH SƠN
3.  Phó chủ tịch thường trực:  PGS-TS NGUYỄN ĐỨC NGHĨA
4,  Phó chủ tịch:                       PGS-TS NGUYỄN XUÂN HUY
5.  Ủy viên:                           GS-TS BẠCH HƯNG KHANG                                      
6.    ..                                       PGS–TS NGUYỄN GIA HIỂU
7.    ..                                       PGS-TSKH NGUYỄN QUANG THÁI
8.    ..                                       PGS-TS PHẠM VĂN ẤT
9.    ..                                       GVC-NGƯT DƯƠNG VIẾT THẮNG
10. ..                                        PGS – TS NGUYỄN ĐỊCH
11. ..                                        TS NGUYỄN THANH THỦY



GS PHAN ĐÌNH DIỆU
Cố vấn khoa học của Hội đồng khoa học đầu tiên

Các ủy viên trong Hội đồng đã thực sự nhiệt tình bắt tay xây dựng  đề án tổ chức đào tạo ngành CNTT bậc đại học tại Viện Đào tạo Mở rộng I Hà Nội với mục tiêu đào tạo, phương thức đào tạo đổi mới trình Bộ Giáo dục và Đào tạo.
*Ngày 28/10/1992 Bộ Giáo dục và Đào tạo có quyết định cho phép đào tạo “thí điểm” bậc đại học cho 4 ngành: Quản trị doanh nghiệp, Kế toán. Tiếng Anh và Tin học tại Viện ĐTMR I. Do kỳ thi tuyển sinh năm 1992 chung toàn quốc đã thực hiện xong trong tháng 7/1992 nên Bộ cho phép Viện ĐTMR I tự tổ chức kỳ thi tuyển sinh của từng ngành vào đầu năm 1993. Để quản lý công tác đào tạo theo đúng qui chế đào tạo đại học, Viện trưởng Viện Đại học Mở Hà Nội ra QĐ số: 21/TCCB ngày 04/3/1993, thành lập 3 tổ chức quản lý đào tạo thuộc Viện là : Khoa Tin học, Khoa Ngoại ngữ và Khoa Quản trị - kinh doanh. Vì khi đó Viện Đào tạo Mở rộng I chưa được phép hoạt động theo qui chế trường đại học nên sau khi Viện Đại học Mở Hà Nội thành lập ngày 3/11/1993, Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã ký QĐ số 2663/ QĐ-TCCB, ngày 1/12/1993 chính thức hóa công nhậ 3 Khoa nói trên là Khoa đào tạo bậc đại học). Sau một thời gian chuẩn bị, xây dựng chương trình, tổ chức bộ máy quản lý và đặc biệt quan trọng là mời và được Bộ phê duyệt đội ngũ giảng viên, Khoa Tin học tổ chức chiêu sinh (qua thi tuyển) và ngày 15/3/1993 đã khai giảng khóa đào tạo bậc đại học ngành CNTT đầu tiên của Khoa với phiên hiệu là khóa 93-01A gồm 36 sinh viên cùng với lớp Chuyển tiếp và văn bằng 2 với phiên hiệu khóa 91-01A gồm 32 sinh viên: Tổng cộng toàn Khoa ngày khai giảng chỉ có đúng 68 sinh viên.
Khoa lấy tên chính thức là KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN- ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI – Faculty of Information Technology – Hanoi Open University – FITHOU và lấy

                  Ngày 15/3 hàng năm là ngày truyền thống của Khoa

Sau này mãi đến ngày 03/11/1993 Thủ tướng Chính phủ mới ban hành quyết định số 535/TTG thành lập Viên ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI hoạt động theo qui chế trường đại học công lập.(Một điều vui vui có thể gây khó hiểu là Khoa lại được thành lập trước Viện!)
Theo quyết định thành lập ngày của Bộ Giáo dục và đào tạo, Khoa Công nghệ Thông tin Viện Đại học Mở Hà Nội được phép đào tạo  KỸ SƯ TIN HỌC:ở bậc đại học, mã ngành đào tạo là: 01.02.10,  với hai chuyên ngành:
- Chuyên ngành 01 - Tin học quản lý
- Chuyên ngành 02 - Tin học ứng dụng
- Các hệ đào tạo :
    +
Hệ  chính quy
    +
Hệ vừa học vừa làm ( tại chức cũ )
    +
Hệ đào tạo  từ xa
Ngoài ra, nhận thấy nhu cầu bức thiết của xã hội , dựa theo kinh nghiệm đào tạo mềm dẻo (flexible training) của nước ngoài, phù hợp với đường lối đa dạng hóa loại hình đào tạo, mở cơ hội học tập cho mọi người của Viện Đại học Mở Hà Nội, Khoa đã chủ động đề nghị Viện báo cáo với Bộ cho phép thử nghiệm 2 loại hình đào tạo mới. Hệ “chuyển tiếp” lấy sinh viên đã học xong giai đoạn một - thời đó giáo dục đại học còn thực hiện đào tạo theo 2 giai đoạn : giai đoạn đại học đại cương 1,5 đến 2 năm (tùy theo ngành) và giai đoạn chuyên ngành 2 đến 3 năm. Hệ “Chuyển đổi bằng”.tiếp nhận những người đã có 1 bằng đại học, nay muốn học thêm văn bằng thứ hai về chuyên ngành công nghệ thông tin. Khóa đào tạo đầu tiên của hệ này lấy phiên hiệu là 91- 01 với 32 sinh viên nhập học (xét tuyển theo hồ sơ, không thi tuyển) cùng khai giảng trong ngày 15/3/1993. Vì nhu cầu học của đối tượng này rất lớn nên  ngay tiếp sau đó 6 tháng lại tuyển thêm khóa 91-02 có 67 sinh viên (xét tuyển) khai giảng vào thời điểm tuyển sinh hệ chính qui năm 1993 của cả nước.
Cho đến thời điểm năm 1993, trong cả nước chưa có tiền lệ về hai loại hình đào tạo mềm dẻo đó nên việc tiến hành các hệ đào tạo này gặp không ít khó khăn khi phải chứng minh được sự cần thiết  và nhất là đảm bảo chất lượng đào tạo của các hệ đó. Mãi đến năm 1995, sau khi đã có những sinh viên đầu tiên tốt nghiệp, vẫn còn vướng mắc về chuyện cấp bằng: đầu tiên Bộ và Viện chỉ đồng ý cấp bằng đào tạo theo hệ vừa học vừa làm, gần 2 năm sau mới được đổi lại thành bằng đại học hệ chính qui! Đến năm 1993, khóa sinh viên hai hệ chuyển đổi bằng – phiên hiệu 01-91-A01 và hệ chuyển tiếp – phiên hiệu 02-91-A01 tuy chỉ có 27 sinh viên tốt nghiệp (Sĩ số nhập học là 38) nhưng  đã là một thực tế chứng minh rằng chủ trương đào tạo hai hệ này là hoàn toàn đúng đắn, 100% sinh viên tốt nghiệp được các cơ sở sử dụng tiếp nhận và nhiều người đã được giao trách nghiệm làm nòng cốt xây dựng cơ sở cho việc ứng dụng CNTT ở cơ quan mình.
Một chi tiết khá thú vị là lễ bảo vệ tốt nghiệp của sinh viên khóa này trùng vào dịp đang có một hội thảo quốc tế về CNTT do ĐHBK HN đăng cai và do TS Nguyễn Thanh Thủy, giảng viên ĐHBK HN và là ủy viên Hội đồng khoa học và đào tạo của Khoa chủ trì. TS Nguyễn Thanh Thủy đã đề nghị Viện ĐH Mở HN đồng ý mời 2 giáo sư Pháp đến tham dự buổi bảo vệ tốt nghiệp của 27 sinh viên (khi nhập học là 32) cùng với nhiều nhà khoa học đầu ngành ở các trường Đại học Bách khoa HN, Đại học Tổng hợp HN và các Viện Toán học, Viện Công nghệ thông tin thuộc Viện khoa học Việt Nam.. Trong khóa này có sinh viên Ninh Đức Thành, trước đây học xong Đại học đại cương ở ĐH Thăng Long và đã đi thực tập Cao đẳng kế toán ở Pháp, sau đó về tham dự đào tạo chuyển tiếp lên Kỹ sư Tin học tại Khoa. Để các giáo sư Pháp có thể nghe và hỏi thử thí sinh, Hội đồng bảo vệ tốt nghiệp (trong đó có nhiều người thành thạo tiếng Pháp) đã đề nghị anh Ninh Đức Thành báo cáo bằng 2 thứ tiếng và trả lời trực tiếp bằng tiếng Pháp các câu hỏi của các giáo sư Pháp và của Hội đồng. Việc làm này làm cho nhiều người đến dự buổi bảo vệ tốt nghiệp (trong đó không ít người quản lý đào tạo và giảng viên ở các Trường bạn đến “thăm dò, xem xét” rất ngạc nhiên, thích thú và cũng góp thêm uy tín cho Khoa.


Kinh nghiệm đào tạo thành công bước đầu của hai hệ đó đã góp phần làm cơ sở thực tiễn để sau này đến những năm 1996, 1997 Bộ Giáo dục và đào tạo chính thức cho phép đào tạo cho nhiều chuyên ngành ở nhiều trường đại học trên phạm vi cả nước hai hệ đào tạo mới: Hệ Văn bằng 2 – tức là hệ chuyển đổi bằng của Khoa, và hệ Hoàn chỉnh kiến thức – tức là hệ chuyển tiếp của Khoa (từ thời điểm 1998 về sau, bậc đại học không đào tạo theo 2 giai đoạn nữa nên nguồn tuyển sinh hệ hoàn chỉnh kiến thức là  những sinh viên tốt nghiệp Cao đẳng chuyển lên). Khóa tuyển sinh đào tạo chính qui đầu tiên của Khoa lấy phiên hiệu là  00-93A-01 đến năm 1997 tốt nghiệp chỉ có 27 sinh viên nhưng đã đánh dấu một cột mốc quan trọng về năng lực tổ chức và đào tạo của Khoa – đơn vị đào tạo bậc đại học ngành CNTT trẻ nhất trong số 7 đơn vị đào tạo ở các trường đại học công lập trong cả nước bên cạnh các trường đại học lớn có truyền thống lâu năm như: ĐH Bách khoa HN và TPHCM, ĐH quốc gia HN và TPHCM, Học viện kỹ thuật quân sự và Học viên Bưu chính viễn thông.


Kéo xuống, nhấn vào: "bài đăng cũ hơn" ở cuối trang để xem tiếp phần 2

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

FITHOU - 20 năm nhìn lại (2)

·       Phần 2:     NHỮNG CỘT MỐC ĐẦU TIÊN (1993 – 1996)
Ngay từ đầu, với tầm nhìn phát triển lâu dài, Khoa CNTT – ĐHMHN qui định đặt phiên hiệu cho các khóa đào tạo của Khoa theo kiểu “địa chỉ định danh” như sau:
Mã hiệu đầy đủ của khóa học: [xx] [xx] [yx] …

Cụm ký tự thứ nhất (hai số)
Ký tự thứ nhất (số) x:  Chỉ địa phương đào tạo: Số 0 là Hà Nội, các số khác gán cho Hải Phòng, Nam Định v..v..(Hiện nay đổi thành ký tự chữ cái đầu của địa phương)
Ký tự thứ hai (số) x : Chỉ hệ đào tạo : Số 0 là hệ đào tạo chính qui
1                               văn bằng 2
2                               liên thông, hoàn chỉnh kiến thức
3                               tai chức, vừa học vừa làm
4                               các hệ đào tạo chứng chỉ, kỹ thuật viên
5                               từ xa
6                               v..v..
Cụm ký tự thứ hai (hai số): chỉ năm nhập học – (chỉ cần cộng thêm 4 thì biết được năm tốt nghiệp (đối với hệ chính qui/ vừa học vừa làm – đầu 0, đầu 3 –  chỉ cần cộng thêm 2 thì biết năm tốt nghiệp các hệ chuyển tiếp, văn bằng 2 – đầu 2 v..v..)
Cụm thứ ba (chữ +số) yx:  Chữ y: Các khóa đào tạo chính qui đều khai giảng nửa cuối năm (từ tháng 7 đến tháng 12) có ký hiệu là B, các hệ đào tạo khác có thể có một kỳ tuyển sinh khai giảng vào nửa đầu năm (từ tháng 1 đến tháng 6)  có ký hiệu là A còn kỳ cuối năm vẫn cõ ký hiệu là B. Nhìn ký tự này có thể tính được khoảng tốt nghiệp ra trường của sinh viên
 Số x: chỉ phiên hiệu của các lớp trong 1 khóa : lớp 1, 2, 3,…
Tiếp sau phiên hiệu khóa học là 3 con số chỉ mã số sinh viên
Chẳng hạn sinh viên Nguyễn Văn X có mã số là : 00-04-B3-136 được hiểu là: Nguyễn Văn X học tại Hà Nội, hệ chính qui, nhập học cuối năm 2004, lớp thứ 2, có số hiệu sinh viên là 136. Đây là một tài nguyên số duy nhất, với ý đồ là sẽ được sử dung cho sinh viên sau này trong mọi giao dịch với Khoa: thẻ sinh viên, mã số đăng nhập website và forum của Khoa v..v..)
Khóa học của Nguyễn Văn X thường gọi tắt là khóa 04-B3, và có thể biết ngay là bình thường  thì Nguyễn Văn X sẽ tốt nghiệp sau tháng 6 năm 2008.
*Các thầy cô quản lý chủ chốt trong Khoa đều là những người có kinh nghiệm giảng dạy và tổ chức quản lý giảng dạy hàng chục năm ở nhiều trường Đại học  có truyền thống nên ngay từ đầu đã thống nhất quan điểm, chủ trương và bắt tay vào một số công việc có tầm quan trọng hàng đầu.
Một thuận lợi rất lớn trong giai đoạn này là Viện tạo điều kiện cho Khoa chủ động về mặt nhân sự, hoàn toàn không có hiện tượng “ép gửi“ từ trên xuống (như vẫn thường thấy ở nhiều cơ quan đơn vị…) do đó lãnh đạo Khoa có điều kiện triển khai những quan điểm xây dựng đội ngũ của mình.
·                     Trân trọng những thấy cô giáo nhiều kinh nghiệm: Muốn phát triển nhanh và có chất lượng, Khoa phải có chính sách thu hút sự gắn bó lâu dài đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng nhiệt tình và có trình độ cao. Một số Thầy sau khi đến tuổi hưu trí, Khoa đã ký hợp đồng và đảm bảo chế độ đối đãi  như  cán bộ cơ hữu của Khoa. Vì vậy mà một số Thầy giáo có trình độ cao, có tiếng tăm trong ngành đã tự nguyện xem mình là người của Khoa, luôn quan tâm và gắn bó với Khoa  như các Thầy Nguyễn Địch, Dương Viết Thắng (đã mất), Nguyễn Tài Hào, Đặng Thành Phu, Bùi Công Cường, Thạc Bình Cường, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Tô Thành, Ngô Thế Khánh, Bùi Tuấn Khang, Đoàn Văn Đức, Nguyễn Gia Hiểu, …    Uy tín của đội ngũ Thầy giáo chất lượng cao đó đã góp phần nâng cao uy tín và tín nhiệm của cho Khoa trong đào tạo và góp phần tạo cho sinh viên lòng tự hào về Khoa mình, Thầy mình.
·          Tự đào tạo đội ngũ: Nhưng không thể chỉ dựa vào đội ngũ giáo viên thỉnh giảng ngày càng hiếm hoi đó, muốn phát triển ổn định lâu dài, Khoa phải có lực lượng cơ hữu của chính mình, do mình  tạo nên. Từ 1995 khi Khoa có những khóa sinh viên tốt nghiệp đầu tiên (hệ chuyển tiếp), một số sinh viên xuất sắc được giữ lại làm giảng viên cơ hữu hoặc cộng tác viên của Khoa như Lương Cao Đông, Trương Tiến Tùng, Vũ Việt Anh... cùng với một số sinh viên giỏi tốt nghiệp ở các Trường bạn được Khoa thu hút về như: Nguyễn thị Thanh Thủy, Thái Thanh Tùng, .. đã là lực lượng giảng dạy nòng cốt trọng những năm đầu cùng với đội ngũ các giảng viên thỉnh giảng. Tiếp đó Khoa có chủ trương cụ thể đề nghị với Viện nhanh chóng chuẩn bị cho phép sớm tuyển dụng một số sinh viên của Khoa tốt nghiệp xuất sắc của các khóa tiếp sau để bồi dưỡng thành đội ngũ giảng viên cơ hữu của Khoa vì Khoa nhận thức rất rõ rằng: Chỉ có là cán bộ viên chức cơ hữu thì mới hết lòng đi sâu tìm hiểu những đặc điểm của Khoa để nhanh chóng đề xuất được những phương sách xây dựng Khoa hữu hiệu nhất. (Cần nói rằng, chủ trương này của Khoa đã từng bị phê phán là “kém hiệu quả về mặt kinh tế” vì rõ ràng ai cũng biết là việc sử dụng giáo viên thỉnh giảng “đơn giản” hơn và trách nhiệm nhẹ nhàng hơn nhiều so với việc phải “cưu mang” một biên chế khá lớn trong hoàn cảnh đầu tư ban đầu của Khoa còn rất khó khăn!). Nhờ chủ trương đúng đắn đó mà đến năm 1996, Khoa CNTT là Khoa có tỷ lệ đội ngũ giảng dạy cơ hữu của Khoa so với số sinh viên  cao nhất trong Viện.
·         Về mặt tổ chức, từ cuối năm 1995, ngoài Chủ nhiệm Khoa là PGS-TS Thái Thanh Sơn, Viện đã quyết định mời thêm PGS-TS Nguyễn Đức Nghĩa khi đó đang làm Phó Chủ nhiệm Khoa CNTT ĐH Bách khoa Hà Nội về kiêm nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Khoa.   Với nhiệt tình đóng góp cho Khoa và Viện, theo thông lệ cán bộ kiêm chức trong Bộ không được tham gia quản lý ở hai đơn vị nên PGS Nguyễn Đức Nghĩa đã tự đề nghị từ nhiệm cương vị Phó Chủ nhiệm Khoa CNTT ở ĐHBK Hà Nội để nhận chức vụ kiêm nhiệm ở Viện.
Trong năm 1995 ở Viện thành lập một khoa mới, tên gọi chính thức theo quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là Khoa Điện tử - Viễn thông (Electronic & Telecommunication). đào tạo kỹ sư Thông tin Vô tuyến điện và kỹ sư Điện tử. Tuy nhiên Khoa bạn lại sử dụng tên gọi là Khoa Công nghệ Điện tử - Viễn thông – Thông tin. Điều này có thể  (và thực sự là đã có) gây nhầm lẫn địa chỉ đào tạo trong Viện và làm cho không ít người tưởng rằng Khoa CN Thông tin chỉ là một bộ phận của Khoa bạn. Để tránh nhầm lẫn, đôi khi rất đáng tiếc, Khoa .đã đề nghị và được Viện chấp nhận đổi tên lần thứ nhất thành Khoa Công nghệ Tin học nhưng tên giao dịch tiếng Anh vẫn là Faculty of Information Technology - FITHOU
·                     Về mặt cơ sở vật chất cho đào tạo, cũng như nhiều Khoa khác trong Viện, trong những năm đầu Khoa  gặp vô vàn khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. Viện Đại học Mở Hà Nội là một cơ sở đào tạo công lập nhưng không được Nhà nước cấp kinh phí. Ngoài ngân sách cấp cho quỹ tiền lương cán bộ cơ hữu là công chức Nhà nước (đến năm 1996 cả khoa chỉ có 01 biên chế công chức, từ 2001 tăng lên 3 biên chế, đến 2010 cũng chỉ còn lại có 2 biên chê) thỉnh thoảng đôi ba năm có thêm một chút ngân sách dăm ba chục triệu cho các đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Viện. Nhưng cũng vì là trường công lập nên không thể huy động vốn xã hội hóa, qua đóng góp cổ phần như các trường tư thục, mặt khác vẫn cần phải thực hiện đúng qui định Nhà nước về khung học phí của các trường công lập đồng thời thực hiện đầy đủ mọi chế độ đối với đối tượng sinh viên thuộc diện chính sách (thường năm chiếm khoảng 8 -10% tổng cộng mọi khoản thu của Khoa).   Năm đầu số lượng sinh viên còn ít, nhưng ngay từ năm 1994 trở đi Khoa đã đối diện với khó khăn lớn về cơ sở vật chất cho đào tạo: phòng học và phòng máy tính thực hành.
Khoa đã rất chủ động tìm mọi cách giải quyết trong khả năng có thể.
Trong những học kỳ đầu, sinh viên các khóa 01-91, 02-91 và 00-93 thực tập tại phòng máy mini của Viện: ngoài 5 máy cũ thời Trung tâm Tin học Viện Đào tạo Mở rộng I có được Bộ “san sẻ” thêm 3 máy tính AT 286 và AT 386 với ổ cứng 1MB và 3MB.
Do quan hệ cá nhân của các cán bộ giảng viên trong Khoa, Khoa liên hệ được để thuê cho sinh viên đến thực tập thêm tại Phòng máy tính của Đại học Thăng Long – là một trường đại học dân lập nhưng trong những khóa đầu 1991 – 1996, ĐH Thăng Long trực tiếp được Hội trí thức Người Việt ở Pháp hỗ trợ kinh phí qua sự vận động của Giáo sư Bùi Trọng Liễu, tiếp đó sau chuyến ghé thăm của Phu nhân Tổng thống Pháp là Danièle Mitterand năm 1994, lại được tiếp nhận sự đỡ đầu của  Hội Hoa Hồng  nước Pháp do Bà làm chủ tịch nên vào thời đó họ có phòng máy tính thực hành cho sinh viên vào loại tốt nhất ở Hà Nội.    
* Những khóa sinh viên đầu tiên: Tuy khó khăn như vậy nhưng chỉ trong vòng 2 năm, đến hết năm 1995 Khoa CN Tin học Đại học Mở Hà Nội đã đào tạo ra trường được 95 kỹ sư Tin học (hai khóa 91-01 và 91- 02). Tất cả sinh viên ra trường đều được tiếp nhận ngay vào nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội: có uy tín như: Vụ Thông tin cơ quan TƯ Đảng, Ngân hàng BIDV, Tổng cục Bưu điện truyền thanh, Tổng cục Đường sắt …một số được về nhận công tác giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng như Đại học Thủy lợi, Học vịên Ngân hàng, Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội (nay là Đại học công nghiệp Hà Nội)…
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang đứng và bộ vét

·                     Nghiên cứu khoa học và quan hệ quốc tế. Nghiên cứu khoa học là một hoạt động song song với hoạt động đào tạo trong các trường đại học. Tuy Khoa mới thành lập lực lượng còn rất mỏng nhưng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học trong trường đại học, Khoa đã chủ động ngay từ đầu hướng cán bộ trẻ và cả những sinh viên các năm cuối trong Khoa nhanh chóng tiếp cận các đề tài nghiên cứu khoa học về quản lý và sản xuất phục vụ trực tiếp cho những địa chỉ ứng dụng cụ thể. Nhiều trường đại học và nhất là các cơ quan nhà nước khác thường xuyên có nguồn kinh phí đối ngoại rất lớn nên hàng năm thường tổ chức nhiều đợt “tham quan khảo sát” ở nước ngoài cho rất rất nhiều cán bộ trong cơ quan. Nhưng phải lưu ý rằng Khoa CNTH – ĐHMHN hoàn toàn không có ngân sách nhà nước cũng như nguồn kinh phí rót từ Viện và Bộ cho nên Khoa tổ chức được những đợt công tác học tập trao đổi kinh nghiệm sang nước ngoài là hoàn toàn do quan hệ của lãnh đạo Khoa tìm kiếm tài trợ từ các trường bạn nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
Năm 1992 và 1993, Chủ nhiệm Khoa được Viện trưởng ủy nhiệm đại diện tham dự Hội thảo quốc tế về đào tạo từ xa trong khối các quốc gia sử dụng Tiếng Pháp – CIFFAD – Commission Internationale de Formation à Distance -  tại đảo quốc Mauritius và tiếp đó là khóa tập huấn quốc tế sau Tiến sĩ – formation Post-Doc - tại Đại học quốc tế Bordeaux – EIB -  Ecole Internationale de Bordeaux – Do những đóng góp tích cực và có hiệu quả, đại biểu của Viện đã được mời tham gia Hiệp hội Văn hóa khoa học pháp ngữ - ACCT – từ năm 1995.
Khoa đã chủ động quan hệ trực tiếp và tổ chức được những chuyến viếng thăm và làm việc quan trọng tai: Đại học quốc gia - NUS – và Đại học kỹ thuật NanYang – NTU - ở Singapore năm 1994, Đại học Công nghệ Sydney – UTS -, Học viện công nghệ Đông Melbourne-  ở Australia năm 1995.
Tiếp ngay sau đó đoàn đại biểu Học viện Công nghệ Đông Melbourne do Bà Phó hiệu trưởng Moira Schulze dẫn đầu, có thành viên là Chủ nhiệm khoa Khoa học máy tính của Trường sang thăm làm việc với Viện và Khoa và đã tặng Khoa 2 suất học bổng Cao học từ năm 1996 cho 2 cán bộ trẻ trong Khoa (kể cả bổ túc tăng cường Tiếng Anh 6 tháng tại trường  AMES – trường chuyên dạy tiếng Anh cho người không bản ngữ)


GS Thái Thanh Sơn tham dự Hội đồng trao bằng tốt nghiệp năm 1995
tại Sydney  University of Technology, Sydney

Tuy lực lượng ban đầu còn rất mỏng nhưng Khoa đã mạnh dạn xác định hướng nghiên cứu đúng đắn lâu dài của Khoa là nghiên cứu ứng dụng CNTT trong đào tạo từ xa và đào tạo Mở. Cán bộ của Khoa đã nhận chủ trì một đề tài nhánh trong đề tài khoa học cấp Nhà nước đầu tiên của Viện :  Nghiên cứu đề án phát triển ĐTTX và đào tạo mở ở Việt Nam trong giai đoạn 1995 – 2000 do Viện trưởng Nguyễn Kim Truy chủ trì.
Một số sinh viên khóa 91-01 như Trương Tiến Tùng, Vũ Việt Anh, Đặng Trần Phú … trong thời gian cuối chuẩn bị tốt nghiệp đã tham gia thực hiện chính trong đề tài nhánh đó. Đề tài chung đã được báo cáo nghiệm thu cuối năm 1996 và được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước đánh giá vào loại xuất sắc.

Với những kết quả cụ thể của đề tài cấp Nhà nước nói trên và những nghiên cứu phát triển bổ sung của Thầy trò trong Khoa về mặt công nghệ, năm 1995 trong hội nghị của tổ chức UNESCO - APEID – tổ chức phát triển giáo dục Châu Á – Thái Bình dương thuộc UNESCO  tại Bangkok và năm 1996 trong hội nghị quốc tế về giáo dục do Bộ Giáo dục – Đào tạo VN và Bộ Giáo dục Tây Australia đồng tổ chức tại Hà Nội,  đại diện Khoa đã có những báo cáo khoa học được đánh giá cao và được đăng tải vào kỷ yếu của các hội nghị. Chủ nhiệm Khoa – GS Thái Thanh Sơn - được bầu làm thành viên chính thức của UNESCO – APEID nhiệm kỳ 1996 – 2000 (và hai nhiệm kỳ tiếp sau đó).

Thế là chỉ trong một thời gian rất ngắn chưa đầy 5 năm kể từ ngày thành lập, vượt qua vô vàn khó khăn, Khoa Công nghệ Tin học – Đại học Mở Hà Nội đã xây được những cột mốc vững vàng cho bước phát triển mạnh mẽ tiếp sau.


Kéo xuống, nhấn vào : "Bài đăng cũ hơn "  để xem tiếp phần 3


Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

FITHOU - 20 năm nhìn lại (3)

·        Phần 3. KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ -  (1997 - 2006).

Năm 1995. Khóa  đào tạo văn bằng 2 và khóa chuyển tiếp đầu tiên - Khóa 01-91-01A và 02-91- 01A- với số lượng rất khiêm tốn: 27 người (sĩ số lúc nhập học năm đầu là 38), đã hoàn thành chương trình đào tạo và nhận bằng tốt nghiệp. Sang năm 1997 khóa đào tạo chính qui hoàn chỉnh đầu tiên của Khoa 00 - 93 – 01B cũng tốt nghiệp ra trường và được nhận bằng kỹ sư Tin học hệ chính qui: Đây là những cột mốc hết sức đáng nhớ của Khoa và Viện.
Năm học 1996-1997 và 1997 – 1998 có thể xem là hai năm bản lề trong quá trình phát triển của Khoa CNTT – ĐH Mở Hà Nội…
·         Bước ra khỏi cửa …
Năm 1994, lại có hai khóa đào tạo chuyển tiếp và văn bằng 2:  01- 92A và 02-92A tốt nghiệp với tổng số 68 sinh viên.




Một lễ trao bằng tốt nghiệp cho sinh viên ở Trung tâm Nam Định
Cô chủ nhiệm lớp Nguyễn thị Thanh Thủy dặn dò sinh viên ..

Năm 1997, trong dịp Lễ tốt nghiệp của Khóa sinh viên hệ chính qui đầu tiên – khóa 00- 93 - 01A, Khoa đã mời một số  một số cơ quan doanh nghiệp – đặc biệt là những doanh nghiệp đã tiếp nhận và sử dụng các sinh viên tốt nghiệp hai năm trước. Các doanh nghiệp đó dều vui vẻ đến dự và tặng quà, tặng học bổng cho sinh viên trong Khoa, đặc biệt có những cơ quan doanh nghiệp hoàn toàn chưa có quan hệ từ trước nhưng chỉ nghe tiếng về một địa chỉ đào tạo mới, sau khi tìm hiểu, cũng đã chủ động tặng quà như: Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Hàng hải VN – Maritime Bank – tặng 2 triệu đồng, Tổng giám đốc Doanh nghiệp St Simon Pte LTD, Cộng hòa Pháp tặng 1000 USD v..v.. làm quà thưởng cho sinh viên xuất sắc các khóa 00-94B, 00-95B và 00-96B. (Nhớ rằng vào thời điểm đó, hệ số  lương tối thiểu bậc 1 chỉ là 120.000 đồng, học phí sinh viên hệ chính qui một năm là 360.000 đồng, 1000 USD lúc đó tương đương với 12 triệu đồng Việt Nam tức là gần 40 suất học bổng toàn phần!)

·         Chương trình đào tạo nghề Kỹ thuật viên Tin học
Thời kỳ đó, nhu cầu của rất nhiều công ty, doanh nghiệp về cán bộ thực hành tin học rất lớn, Khoa cũng vẫn là một đơn vị được phép đào tạo các chứng chỉ Tin học A, B…của Bộ, kế tiếp nhiệm vụ của Trung tâm Tin học Viện Đào tạo mở rộng I trước đây. Các Trung tâm Tin học A, B…bên ngoài mọc lên như nấm nhưng chất lượng đào tạo không hề đáp ứng cho nên không được tín nhiệm. (Học viên chỉ nhằm kiếm được chứng chỉ nộp các hồ sơ công chức theo thủ tục, không có kiến thức thực sự)
Nhận thấy rõ có nhiều vấn đề về nội dung và phương pháp đào tạo trong các chương trình đó không phù hợp với nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động đương thời, học tập kinh nghiệm của Trường kỹ thuật Đông Melbourne – Eastern Melbourne Institute of Technical and Further Education, thường gọi tắt là TAFE - Khoa đã mạnh dạn đề xuất với Viện cho thực hiện một chương trình đào tạo nghề rất cơ bản: chương trình Kỹ thuật viên Tin học, thời gian đào tạo 01 năm, chú trọng nhiều về năng lực thực hành ứng dụng các kỹ năng như: Tin học văn phòng, kế toán, quản trị dữ liệu và một chút ít về đồ họa máy tính và AutoCAD cũng như một số kiến thức về phần cứng: Kiến trúc máy tính, bảo trì máy tính, lắp đặt và cài đặt các mạng máy tính cục bộ. Chỉ sau 1 năm (2 học kỳ) người kỹ thuật viên tin học được đào tạo theo chương trình này có thể độc lập phụ trách các ứng dụng tin học, làm việc tại các doanh nghiệp/công ty nhỏ một cách có hiệu quả. Trong khi xây dựng chương trình đào tạo, cán bộ của Khoa, nhất là lớp sinh viên trẻ mới tốt nghiệp được giữ lại công tác tại Khoa, đã bỏ nhiều thì giờ thâm nhập tìm hiểu nhu cầu cấp thiết trước mắt về ứng dụng tin học ở một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời tìm hiểu thực trạng đào tạo ở các Trung tâm đào tạo tin học bên ngoài và phân tích để thấy chỗ mạnh, chỗ yếu của họ. Trong vài tháng cuối khóa đào tạo, trước khi thi tốt nghiệp, thông qua một  số Thầy có quan hệ nhiều với các doanh nghiệp, Khoa đã cố gắng cho tất cả học viên có dịp thực tập tại một số doanh nghiệp cụ thể. Chính vì vậy  32 kỹ thuật viên đầu tiên tốt nghiệp năm 1996 đều được các doanh nghiệp đón nhận về làm việc ngay và đều chứng tỏ được năng lực của mình.
Chương trình đào tạo KTV Tin học  - học tập theo chương trình đào tạo  TAFE của Úc và Community College của Mỹ – còn để ngỏ một hướng cho học viên, sau khi tốt nghiệp KTV, nếu tiếp tục theo học các hệ đào tạo dài hạn trong Khoa thì có thể được miễn giảm, rút ngắn thời gian đào tạo một số học phần thực hành. Việc làm này là thực hiện theo phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ của Úc và Mỹ nhưng ngày đó ở Việt Nam chưa ai đề xuất chứ đừng nói chuyện chấp nhận kiểu đào tạo đó! Vì vậy Khoa phải rất khéo léo trong việc bố trí sắp xếp để vẫn tiến hành được mà không vi phạm qui chế đào tạo của Bộ và của Viện.
Lần lượt trong 3 năm 1996 – 1999, 6 khóa KTV TH đào tạo theo mô hình của Khoa tỏa về làm việc tại các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp trong cả nước, được tiếp nhận và phát huy tác dụng rõ rệt. Đối với Bộ GD & ĐT thì Giấy chứng nhận đào tạo KTV TH của Viện và Khoa không được coi là một chứng chỉ học tập có giá trị - nghĩa là không thể kê khai như chứng chỉ Tin học A, B để lập hồ sơ thi công chức chẳng hạn – nhưng thị trường lao động, nhất là khu vực ngoài quốc doanh và khu vực lien doanh với nước ngoài thì qua kiểm tra phỏng vấn lại sẵn sang tiếp nhận KTV của Khoa đào tạo mà hoàn toàn không hề chấp nhận và đánh giá cao người có Chứng chỉ Tin học A, B của Bộ GD & ĐT.

Được Viện trưởng ĐH Mở HN lúc đó là GS Nguyễn Kim Truy rất ủng hộ nên dù có vài ý kiến trái chiều, Chứng chỉ tốt nghiệp của hệ KTV vẫn do Viện và Khoa phát hành – không thuộc hệ thống bằng cấp chứng chỉ của Bộ GD & ĐT quản lý - có chữ ký và dấu của Chủ nhiệm Khoa CNTH và Viện trưởng Viện ĐH Mở Hà Nội, in bằng song ngữ Việt/Anh, đã tạo điều kiện dễ dàng cho hàng trăm người xin việc được vào làm tại các doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp tư nhân,  liên doanh hoặc doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
Do lợi ích trước mắt và lâu dài của chương trình đào tạo này nên không ít sinh viên hệ chính qui trong khoa, và rất nhiều sinh viên các khoa khác trong Viện – kể cả sinh viên những trường đại học khác – song song với việc học chính qui tại trường, khoa mình, cũng đăng ký theo học hệ đào tạo này!
Ngay cả một số khá đông cán bộ công viên chức, do nhu cầu công việc, cũng đến đăng ký học chương trình KTV: học để lấy nghề chứ không cần lấy chứng chỉ, bằng cấp.

(Điều này xét cho cùng là có lợi cho xã hội và cho người lao động cũng như người sử dụng lao động, nhưng đã gây ra khá nhiều điều phiền phức tế nhị trong quan hệ giữa FIT-HOU, Viện ĐH Mở Hà Nội với một số bộ phận quản lý đào tạo nhiều cấp. Chính vì vậy mà đến năm 2001, khi mà hệ đào tạo KTV đang phát triển rất mạnh mẽ thì Viện ĐH Mở HN lại không thể sử dụng con dấu đóng vào chứng chỉ KTV nữa!)

·         Thành lập CHI HỘI TIN HỌC Đại học Mở Hà Nội
Từ năm 1995, đã bắt đầu có sinh viên tốt nghiệp của Khoa ra trường, đảm nhiệm công tác ở nhiều cơ quan đơn vị trong cả nước, họ vẫn có nguyện vọng giữ một mối quan hệ gắn bó với Khoa. Nhiều cộng tác viên của Khoa cũng rất muốn tham gia các hoạt động nghiên cứu, học thuật cùng với tập thể cán bộ nhân viên trong Khoa. Tuy nhiên về mặt tổ chức thì Khoa CNTH của một Viện Đại học không thể có chức năng quản lý, điều phối những hoạt động trong phạm vi rộng như thế.
Là một thành viên sáng lập và cũng đã từng tham gia Ban Chấp hành Trung ương Hội Tin học Việt Nam, GS Thái Thanh Sơn đã thảo luận đề xuất giải pháp thành lập một chi hội của Hội Tin học Việt Nam, có thể thu hút thành viên một cách khá rộng rãi.
Ngày 01/6/1997 đại hội lần thứ nhất thành lập Chi hội Tin học Đại học Mở trực thuộc BCH TW Hội Tin học Việt Nam đã tiến hành thắng lợi và ngay sau đó đã được Chủ tịch BCH TW Hội Tin học Việt Nam ra quyết định công nhận.
Chi hội Tin học ĐH Mở Hà Nội bao gồm các phân hội gồm hội viên là cán bộ ngay trong Khoa và trong Viện, và có những phận hội bên ngoài, thu hút thành viên là những cựu sinh viên của Khoa, những cộng tác viên của Khoa trong từng ngành, từng khu vực như: phân hội quận Tây Hồ, phân hội Bắc Ninh, phân hội Hải phòng, phân hội Sơn Tây, phân hội Đà Nẵng, phân hội Quảng Ngãi, phân hội Bình Định; ngoài ra còn có những hội viên cá nhân trực thuộc …thời kỳ đông nhất số lượng hội viên lên đến trên 400.
Ngay sau khi thành lập Chi hội và các phân hội đã xúc tiến các hoạt động nghiên cứu, đào tạo tại các Trung tâm đào tạo thường xuyên Tây Hồ - Hà Nội, An Hải - Hải Phòng, tại trường Cao đẳng thống kê Bắc Ninh, trường Cao đẳng Việt Hung và các Trung tâm đào tạo tin học ở Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định…và hỗ trợ các cơ sở kinh doanh trong lĩnh vực CNTT của các hội viên trong Chi hội chủ trì. Chi hội cũng rất quan tâm hỗ trợ có hiệu quả về mặt công nghệ cho các cơ sở kinh doanh trong ngành CNTT do hội viên chủ trì: điều này tạo điều kiện cho nhiều  sinh viên được tiếp xúc nhiều với thực tiễn và trưởng thành nhanh chóng.
*Hệ đào tạo Kỹ thuật viên Tin học được Chi hội tiếp quản, chứng chỉ KTV Tin học do Khoa và Chủ tịch Chi hội Tin học ký tên đóng dấu thay cho chữ ký và con dấu trước đây của Viện ĐH Mở HN. Kỹ thuật viên do các trung tâm thuộc Chi hội đào tạo ra vẫn được các nhà sử dụng tín nhiệm tiếp nhận như trước.
*Một hoạt động nổi bật của Chi hội là việc Chi hội chủ động nhận với Khoa đảm nhiệm hoàn toàn việc tổ chức hướng dẫn, bồi dưỡng và quản lý các đội tuyển sinh viên của Khoa hang năm tham sự kỳ thi Olympic Tin học toàn quốc do Hội Tin học VN và Bộ Giáo dục &Đào tạo đồng tổ chức, Ngay lần tham gia đầu tiên năm 1998, sinh viên Dương Thăng Long khóa 00-96B1 đã đạt giải Nhì khối chuyên Tin khu vực phía Bắc và giả Ba toàn quốc. Liên tiếp trong các năm sau, hàng năm sinh viên của đội tuyển Olympic Tin học Khoa CNTH – ĐH Mở HN luôn có người đạt thứ hạng cao và xếp hạng toàn đoàn hàng năm trong các trường đại học toàn quốc luôn vào loại Top 5, chỉ sau một vài trường lớn như: ĐH Bách khoa HN và TP HCM, ĐH Khoa học tự nhiên, Học viện kỹ thuật quân sự … Chính điều này đã góp phần rất quan trọng cho uy tín và tín nhiệm trong toàn quốc về mặt đào tạo tin học của Khoa: Trong “làng tin học” người ta đã nhắc đến tên FIT-HOU như là một địa chỉ đáng tin cậy, được coi trọng. Sinh viên FIT-HOU tốt nghiêp khi dự thi tuyển vào các cơ quan, xí nghiệp đều được xem là những đối thủ đáng gờm, và thực sự cũng đúng là như vậy!
·         Tổ ấm ổn định,
Sự ra đời của Chi hội Tin học cũng đã giúp Khoa giải quyết một vấn đề rất cơ bản: vấn đề địa điểm học tập.
Khó khăn rất lớn của Khoa CNTH nói riêng cũng như của toàn thể các Khoa trong Viện Đại học Mở Hà Nội nói chung từ những ngày đầu thành lập vẫn là việc tìm kiếm cho được một địa điểm khang trang đủ điều kiện tối thiệu để có thể tiến hành học tập ổn định trong ít nhất từ 5 – 10 năm.
Trong năm học đầu tiên 1993 – 1994 với số lượng sinh viên rất ít Khoa sử dụng địa điểm học tập cho sinh viên tại mấy phòng học chung của Viện ở cơ sở một phố Nguyễn Hiền trong khu Bách khoa.
Từ năm sau số lượng sinh viên các hệ đào tạo trong khoa dự kiến sẽ tăng lên gấp 3, 4 lần, lại có nhu cầu bức thiết về phòng máy tính cho thực hành nên địa điểm học tập tại cơ sở 1 của Viện hoàn toàn không thể đáp ứng được.
*Trước hết thông qua sự kết nối tích cực của đ/c Cao Mạnh Toàn và các hội viên Chi hội Tin học trong Khoa với Hội Tin học Hà Nội, Khoa đã liên hệ được với Công ty máy tính 3C giúp đỡ, hỗ trợ cho Khoa ký hợp đồng toàn quyền quản lý, khai thác và sử dụng một phòng máy tính gồm một mạng Novel Netware với 32 máy trạm và đầy đủ phụ kiện, thiết bị kèm theo. Khoa thành lập một Trung tâm thực hành đặt tại Câu lạc bộ Thanh niên Hà Nội ở Phố Tăng Bạt Hổ phân công một tổ quản lý do  Trương Tiến Tùng, lớp trưởng của khóa đầu tiên 91-01A mới tốt nghiệp được giữ lại Khoa làm Trưởng Trung tâm, cùng với Nguyễn thị Thu Thủy và Đinh Việt Nga - cũng là 2 sinh viên tốt nghiệp của Khoa được giữ lại - cùng quản lý . Tại thời điểm đó phòng máy tính thực hành như vậy đã là một niềm kiêu hãnh của cán bộ và sinh viên trong Khoa và cũng là niềm mơ ước của nhiều đơn vị đào tạo Tin học chính qui khác.
*Tiếp đó, các hội viên của phân hội Tây Hồ trong Chi hội Tin học lại quan hệ và giới thiệu cho Khoa thuê được địa điểm học tập tập trung và độc lập trong một khu vực có môi trường sư phạm rất tốt của Trung tâm đào tạo thường xuyên quận Tây Hồ với điều kiện rất ưu đãi. Khoa tiến hành đào tạo ổn định tại đấy trong 2 năm học 95-96 và 96-97, điều kiện địa điểm về mọi mặt đều có phần trội hơn so với các Khoa khác trong Viện.
Năm học 1997 – 1998 là một năm bản lề đối với Khoa về mặt cơ sở đào tạo.
*Chi hội Tin học với quan hệ và năng lực tài chính tự tạo của mình, đã đứng ra ký hợp đồng dài hạn thuê một cơ sở của Viện công nghiệp tầu thủy đang xây dựng dở dang (nguyên dự định dung để tổ chức một cơ sở đào tạo công nhân, kỹ thuật viên ngành vận tải thủy nhưng nay không sử dụng nữa) rồi chuyển giao gần như toàn bộ cho Khoa. Sở dĩ phải thông qua Chi hội Tin học là vì bên cho thuê yêu cầu thanh toán trước 50% tiền thuê cơ sở cho 5 năm. số tiền lên đến hàng mấy tỷ đồng. Mà khả năng tài chính của Khoa thì hoàn toàn do tự lực cánh sinh theo nguồn thu hàng năm, không hề có kinh phí của Viện hay Bộ cấp, Khoa chỉ có thể thanh toán tiền thuê cơ sở trong từng năm một, phải nhờ đến nguồn tài chính xã hội hóa mạnh mẽ của Chi hội Tin học: Chi hội Tin học thuê dài hạn trả tiền trước 5 năm rồi cho Khoa thuê lại trả tiền theo từng năm, Chi hội Tin học chỉ giữ lại một văn phòng làm việc nhỏ trong toàn bộ cơ sở.
Và như vậy là từ đầu năm 1998, tại địa điểm Ngõ 161 Đê La Thành, Khoa Công nghệ Tin học – Đại học Mở Hà Nội đã tạo dựng được một cơ sở  khang trang, phục vụ đào tạo, học tập và sinh hoạt  cho sinh viên với  6 phòng làm việc cho Khoa và các Bộ môn, trung tâm, 12 phòng học và 2 Hội trường rộng rãi, 4 phòng máy thực hành, mỗi phòng 30 máy, hàng chục máy tính kết nối mạng và Internet sử dụng cho quản lý và nghiên cứu khoa học, có cả sân chơi và khu vực để xe cho cán bộ sinh viên.     
·         Về tổ chức , trong giai đoạn này Viện ĐH Mở Hà Nội quyết định bổ nhiệm chính thức Hội đồng Khoa học và đào tạo Khóa II gồm:
1/ Chủ tịch:               GS-TS Thái Thanh Sơn – Chủ nhiệm Khoa
2/ Phó Chủ tịch:       PGS-TS Nguyễn Đức Nghĩa – Phó Chủ nhiệm Khoa
3/ Thư ký Khoa học:            ThS Lương Cao Đông
4/  Cố vấn Khoa học:          GS-TS Phan Đình Diệu
5/  Ủy viên:                PGS-TS Nguyễn Gia Hiểu
6/                                 PGS-TS Phạm Văn Ất
7/                                 PGS-TS Nguyễn Địch
8/                                 PGS-TS Nguyễn Thanh Thủy
9/                                 PGS-TSKH Bùi Công Cường
10/                               ThS Thái Thanh Tùng
11/                               Kỹ sư Vũ Việt Anh
            Khoa đề nghị và được Viện đồng ý cho thành lập 05 Bộ môn:
1/ Bộ môn Khoa học xã hội           Tổ trưởng:     Đoàn Văn Đức
2/ Bộ môn Tiếng Anh chuyên ngành      TT        Đoàn Đức Hạnh
3/ Bộ môn Toán học                                    TT        Nguyễn Địch
4/ Bộ môn Công nghệ phần mềm              TT        Phạm Văn Ất
5/ Bộ môn Hệ thống TT & Mạng MT           TT        Nguyễn  Gia Hiểu
Để phục vụ tốt cho công tác nghiên cứu khoa học và tiếp cận sản xuất – một nhiệm vụ không thể thiếu đối với mọi trường đại học – ngày 10/8/1998 Khoa đã được Viện đồng ý cho phép thành lập  hai cơ sở trực thuộc Khoa: Trung tâm nghiên cứu công nghệ đào tạo trực tuyếnTrung tâm quản trị thiết bị CNTT và Mạng máy tính 
1/ Trung tâm Công nghệ đào tạo trực tuyến                  Trưởng TT:    Thái Thanh Tùng
2/ Trung tâm Quản trị thiết bị và Mạng                            Trưởng TT:    Vũ Việt Anh
Trung tâm Công nghệ đào tạo trực tuyếnOnline Instructional Technology Center – OITC được thành lập theo mô hình của Trường Đại học Bang Utah, Mỹ – UTAH State University, về sau đổi tên thành Trung tâm Công nghệ và dịch vụ trực tuyếnOnline Technique and Service Center – OTSC là nơi thai nghén và ra đời của hàng loạt công trình nghiên cứu khoa học của Khoa suốt hàng chục  năm sau này.
Trung tâm quản trị thiết bị và mạng máy tínhEquipment & Network Management Center – ENMC là cơ sở về chuyên chăm sóc các thiết bị phần cứng và hệ thống mạng máy tính sử dụng cho học tập, thực hành, nghiên cứu khoa học trong Khoa. Trung tâm này hoạt động rất có hiệu quả: chỉ riêng chi phí bảo trì sửa chữa hang trăm thiết bị của Khoa hàng năm cũng giảm được hàng trăm triệu. Không những có tác dụng rõ rệt trong Khoa mà Trung tâm còn phát huy tác dụng tích cực đối với toàn Viện và cả đối với các cơ sở liên kết cũng như các cơ sở kinh doanh bên ngoài, góp thêm kinh phí hoạt động cho Khoa và nhất là tạo điều kiện thực tập, thực hành cho sinh viên tiếp cận thực tiễn. Một thành tích rất to lớn và có ích cho xã hội sau đây cần phải kể đến. Khoa có 3 phòng máy tính thực hành với khoảng 100 máy PC. Hàng năm, trung bình thay mới một phòng và có khoảng 30 PC bị thanh lý, loại bỏ. ENMC đã cùng với chi hội tin học tổ chức phục hồi, bảo dưỡng và cung cấp với điều kiện rất ưu đãi (hầu như biếu, tặng) cho các đơn vị liên kết như: Trung tâm giáo dục thường xuyên quận Tây Hồ, Trường T80 (Trường con em dân tộc và học sinh Lào, Campuchia), Trường Tiểu học Thăng Long – đơn vị truyền thống của ngành giáo dục. Chính nhờ công việc này mà các đơn vị đó  mới có điều kiện tiến hành liên kết đào tạo Tin học với Khoa và tự đào tạo cho học sinh của mình.
·         Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập…và sau đó…
Thầy trò Tin học Khoa ta,
Hàng năm nhớ Hội THÁNG BA NGÀY RẰM
Từ năm 1994, Thầy trò Khoa CNTH - ĐHM HN luôn ghi nhớ ngày Hội Khoa : “Rằm tháng Ba” và hàng năm đều tổ chức Lễ Hội kỷ niệm trang trọng và ấm cúng.
Năm 2003, Lễ hội kỷ niệm 10 năm thành lập là một dịp để Thầy trò toàn Khoa nhìn lại những chặng đường khó khăn gian khổ nhưng đây tự hào của mình. Cho đến hôm đó Khoa CNTH ĐHM HN đã tự hào chính thức nằm trong hàng ngũ những đơn vị đào tạo và nghiên cứu ứng dụng CNTT có tín nhiệm trong cả nước.
Ngày 15/3/2003, hơn 2000 cán bộ, sinh viên, có cả nhiều đại diện sinh viên từ Quảng Bình, Đà Nẵng, Hải Phòng, Sơn Tây, Nam Định và rất rất nhiều cựu sinh viên của Khoa – không có thông báo mới trực tiếp mà chỉ qua theo dõi trên mạng Internet – đã tập trung về Công viên nước Hồ Tây tham gia lễ hội. Ngoài phần thủ tục báo cáo, tổng kết, sinh hoạt cắm trại và lửa trại từ đêm trước đã tạo ra một không khí thân thiết, tưng bừng…như con cháu trong một đại gia đình xa nhau lâu ngày được về họp mặt.


                                       GS Thái Thanh Sơn trang trọng Khai mạc Hội thảo




Một điểm nhấn quan trọng – mà nhiều lễ hội kỷ niệm cấp Khoa, ngay cả cấp Trường cũng khó tổ chức – đã được tiến hành nghiêm túc và có chất lượng: Hội thảo khoa học về ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo. Tham gia Hội thảo, có nhiều báo cáo và tham luận có chất lượng (sau đó một số đã được đăng trên các tạp chí khoa học trong nước và nước ngoài) không những chỉ của giảng viên cán bộ trong Khoa mà còn có sự đóng góp của một số nhà khoa học hàng đầu trong nước : GS Phan Đình Diệu,


Khách quốc tế và bè bạn tham dự Hội thảo

GS Nguyễn Thanh Thủy, PGS Phạm Văn Ất, GS Lâm Quang Thiệp, PGS Vũ Chấn Hưng, PGS Vũ Ngọc Cừ v..v… đặc biệt còn có một số khách mời quốc tế tham dự. Một điều đáng ngạc nhiên và trân trọng – điều này hình như chưa hề xảy ra ở Việt Nam đối với một Hội nghi khoa học cấp Khoa – là sự có mặt nghiêm túc, tham dự từ đầu đến cuối Hội thảo và tham gia phát biểu của Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu khoa học và Vụ Giáo dục thường xuyên cúa Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Viện phó Viện Giáo dục Việt Nam.
Sau Lễ hội kỷ niệm 10 năm thành lập đáng nhớ đó, trong ngành CNTT nước nhà nói chung, cái tên FITHOU đã trở thành quen thuộc và được yêu mến của đông đảo mọi người. (Sinh viên FITHOU trước đây có khi còn mặc cảm tự ti đôi chút trước bạn học ở các trường “Ông lớn” nhưng nay đã hoàn toàn tự tin ngửng cao đầu – và thực sự cũng có quyền ngửng cao đầu!)
·         Nhà trường ảo FITHOU CYBERSCHOOL
Internet ra đời từ những năm 80 của thế kỷ trước nhưng ứng dụng còn hạn chế và còn chưa phổ biến, Việt Nam mãi đến tháng 12/1997 mới bắt đầu ký kết tham gia.Từ hội thảo Mauritius năm 1992 về các phương tiện truyền thông multimedia sử dụng cho đào tạo từ xa rồi đến các khảo sát trong các năm sau ở các Đại học Mở Thái Lan – Ramkhamheng và SukhoThai Thammathirat - và hệ thống Đại học Phát thanh & Truyền hình Trung quốc – Côn Minh và Thương Hải…Viện Đại học Mở Hà Nội trong những năm đầu khẳng định chọn một kênh của đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam làm phương tiện truyền thông sử dụng trong đào tạo từ xa trong Viện (Chủ yếu là cho Khoa kinh tế và Khoa Luật)


Lê Hữu Dũng, “đại ca” bé nhỏ, một trong các nguồn sức sống cua OTSC

Tuy nhiên sau quá trình nghiên cứu tìm hiểu của mình và thông qua các hội thảo quốc tế tế do APEID, UNESCO và UNEVOC tổ chức, nhất là sau đợt tìm hiểu và khảo sát tại chỗ tại trường Đại học bang UTAH – Utah State University ở Mỹ, Khoa CNTH khẳng định quyết tâm nghiên cứu phương thức đào tạo từ xa qua máy tính và Interrnet – Computer aided Learning and Internet based training: đây là một quyết định táo bạo và đột phá trong thời kỳ đó.
Năm 2000, Khoa xây dựng website đầu tiên của mình tại địa chỉ:
Chỉ sau không đầy một năm, số lượt truy cập website đã lên đến hàng trăm ngàn và VNPT đã đánh giá đây là một website giáo dục  có lượng truy cập vào loại lớn nhất ở Việt nam thời đó.
Năm 2001, Khoa bắt đầu phát triển rộng hệ đào tạo từ xa và có các Trung tâm đào tạo tại Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Bình, Đà Nẵng, Bình Định, Quảng Ngãi v..v.., nhu cầu giao lưu giữa học viên ở xa với Khoa và nhà trường tăng vọt và trở nên bức thiết. Khoa đã chỉ đạo trung tâm OTSC nhanh chóng xây dựng một diễn đàn trao đổi học tập tích hợp vào website để đưa lên một số giáo trình, bài giảng, bài tập thực hành đồng thời tạo một kênh giao tiếp thân thiện và thuận tiện cho học viên với Khoa, với giáo viên, giữa học viên với nhau. Sinh viên hưởng ứng quá nhiệt tình, chỉ trong vòng 6 tháng số thành viên đăng ký đã lên đến trên 3000 sinh viên đang học và rất nhiều người ngoài Khoa), hàng ngày có hàng trăm thậm chí những dịp cuối kỳ học có khi lên đến hàng nghìn lượt truy cập. Một diễn đàn trên website hoàn toàn không đủ khả năng đáp ứng! Trung tâm OISC theo chỉ đạo của Khoa đã nhanh chóng tách và nâng cấp diến đàn trao đổi học tập thành một “Nhà trường ảo” : FITHOU CYBERSCHOOL đặt tại địa chỉ:                                   www.forum.fithou.net.vn
Forum.fithou  có gần đủ các chức năng giao tiếp: Thầy – Trò, Người học – Bạn đồng học, Người học – Tổ chức quản lý học tập. với nhiều diễn đàn con: từ các diễn đàn trao đổi học tập và các tutorial học tập theo từng Bộ môn, diễn đàn trao đổi kinh nghiệm học tập, làm bài tập, khóa luận…cho đến các diễn đàn trao đổi sinh hoạt, tin tức vui buồn mọi mặt trong Khoa, cập nhật thông tin, thông báo v..v.. thực sự trở thành là một “nhà trường ảo của tập thể cán bộ và sinh viên FITHOU.
Năm 2002 và 2003, đại diện của Khoa đã giới thiệu FITHOU Cyberschool tại nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế của AAOU, APEID và UNESCO, UNEVOC và đặc biệt tại 2 hội nghị World Summit of MegaUniversities của các “đại gia” hàng đầu trong lĩnh vực đào tạo từ xa và đào tạo mở quốc tế  tại Thái Lan, Indonesia, Trung quốc, Hàn quốc, Canada, Vương quốc Anh…và đã nhận được những đánh giá khá trân trọng. Qua các hội thảo đó, 2 cán bộ của Khoa (OTSC): Thái Thanh Tùng và Lê Hữu Dũng, được mời tham gia dự án : Đại học ảo tiểu vùng Mekong – The Great Mekong Subregion Virtual University – GMS VU - do UNESCO Châu Á – Thái bình dương chủ trì và tài trợ. Tiếp sau đó OTSC đã ký hợp đồng xây dựng gói phần mềm thực hiện một chương trình đào tạo hướng dẫn viên du lịch quốc tế trong khu vực cho GMS VU.


FITHOU Cyberschool cũng là nội dung chủ yếu trong báo cáo tổng kết của đề tài cấp Bộ của Khoa: “Nghiên cứu công nghệ đào tạo mới trong đào tạo từ xa và đào tạo mở” tiến hành trong 2 năm 2002 – 2004 và đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ đánh giá xuất sắc tháng 12/2004.

Trong những năm 2005 -2006 cán bộ và thực tập sinh Khoa CNTT và trung tâm OTSC đã tiếp tục nghiên cứu nâng cấp đề tài gốc ban đầu thành nhiều gói phần mềm ứng dụng có thể sử dụng hoàn toàn có hiệu quả cho đào tạo. Tuy nhiên suốt trong thời gian 4, 5 năm sau năm 2006 khi có đường lối và các biện pháp quản lý mới của Viện thì tính chủ động của Khoa và các Trung tâm trong Khoa gặp nhiều hạn chế. Cũng vì nhiều lý do “nhạy cảm” mà trước đây hồi 2003 – 2004 Viện đã sử dụng toàn bộ gói kinh phí khá lớn trên 4 tỷ đồng của Bộ cấp cho đề tài nghiên cứu công nghệ cho đào tạo của Viện để trang bị hệ thống “Cầu truyền hình sử dụng cho đào tạo từ xa” mà không dành một tỷ lệ khiêm tốn dù chỉ 10 -15% cho đề tài của Khoa (Được biết Cầu truyền hình cho đào tạo là một sản phẩm của Học viện Bưu chính – Viễn thông sản xuất ra nhưng không sử dụng được mà cũng không thể bán cho ai nên đã gợi ý “bán rẻ” cho Viện ĐH Mở HN). Hệ quả rất rõ ràng là sản phẩm cầu truyền hình trong ĐTTX qua vài lần “trình diễn” thì sau đó không hề được dùng vì hiển nhiên là điều kiện ứng dụng, dàn dựng, bảo trì thiết bị, tập hợp học viên v..v.. quá khó khăn và tốn kém, không thể dùng nổi. Trong khi đó FITHOU Cyberschool không hề có đồng kinh phí nào được Bộ và Viện rót vào mà vẫn phát huy tác dụng tốt. 

Kéo xuống, nhấn vào "Bài đăng cũ hơn" để đọc tiếp Phần IV