Happy New Year 2014
COGITO ERGO SUM - Je pense, donc je suis - Tôi tư duy, vậy là tôi tồn tại! - RENÉ DESCARTES (Một Triết gia và Nhà Toán học Pháp)
Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013
Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013
Chúa sinh ra đời...
NHỮNG BẢN THÁNH CA ĐỂ ĐỜI...
(Chịu khó chờ hơi lâu tí nhé!)
Liên khúc Giáng sinh
Liên khúc Giáng sinh (Lời Việt)
Hang Bethlehem
Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013
Chuyện Y học viễn tưởng
Hiện nay thì chuyện thay thận, ghép gan v..v.. không còn là chuyện lạ trong làng y nữa rồi!
Thế nhưng, chuyện kể rằng...
Khoảng năm 20...nào đó, nền y học nước nọ đã tiến bộ đến mức cao chưa từng có: mọi "phụ tùng" trong cơ thể đều có khả năng thay thế lắp ghép, nâng cấp. Giống như cái máy tính chạy chậm ta có thể cắm thêm thanh RAM, không cứ gan thận phổi tim mà ngay cả bộ óc, ai không vừa ý với bộ óc của mình thì chỉ cần đến Cửa hàng mua mấy lạng hoặc mấy kg mang ghép thêm vào bộ óc của mình: thế là IQ tăng lên ào ào!
Một ông Bố lo lắng cho tương lai của con nên năm con vào lớp 1, quyết tâm dành dụm ra cửa hàng tìm mua thêm dăm lạng óc về lắp thêm cho cậu "trướng nam" mong sau này con mình thông minh tài giỏi, chắc chắn sẽ làm rạng rỡ tông môn.
Ông bước vào cửa hàng "Óc second hand" - chuyên bán óc của những người mới chết để lại (Vì thời đó bán "phụ tùng" có tiền nên con cháu không dại gì mang các phụ tùng có giá trị đi chôn hay đi hỏa táng mà khi người thân vừa qua đời thì ngay lập tức moi hết phụ tùng còn nguyên vẹn ra ký gửi bán tại cửa hàng, còn chôn hay hỏa thiêu chỉ là một ít da thịt phế phẩm, vô giá trị mà thôi).
Nhìn bảng giá thấy đề nhiều loại óc giá cả rất khác nhau: có loại 10 triệu/1kg nhưng cũng có loại chỉ mấy chục nghìn/1kg thôi. Ngạc nhiên ông Bố hỏi chủ cửa hàng:
-"Tại sao có loại óc đắt có loại óc rẻ, chênh nhau đến mấy chục lần thế này? Phân biệt óc nội và óc ngoại nhập à?".
Ông chủ vội trả lời:
- "Không có phân biệt nội ngoại gì đâu ông ơi. Tế bào nơ ron thì óc nào cũng thế thôi. Giá cả khác nhau là do nguồn gốc ngành nghề của chủ cũ: này nhé óc nông dân thì 2 triệu/1kg, óc nhà buôn 1 triệu 1/kg... "
- "Thế óc nào đắt nhất? Óc nào rẻ nhất?"
- "À đắt nhất là óc VIP - óc các sếp bự: 10triệu/1kg, còn rẻ nhất thì chắc chắn là óc nhà toán học rồi: có 10 nghìn/1kg thôi!"
- "Vô lý, thế các ông đánh giá là các nhà toán học NGU hơn các sếp à?"
- "Không phải đâu thưa ông. Là vì các nhà toán học họ xài óc dữ lắm, một bộ óc mà nhà toán học dùng cỡ 2,30 năm thì bã hết rồi, 1kg óc hầu như chẳng còn được mấy cái nơ ron nguyên vẹn, có còn gì nữa đâu mà chẳng rẻ? Trong khi các sếp thì toàn do thư ký, trợ lý chúng nó tư duy hộ, mấy khi sếp phải dùng đến óc! Cho nên có sếp 6,70 tuổi ra đi mà nơ ron trong bộ óc hầu như chưa suy suyển: Làm sao mà không đắt?"
Thứ Tư, 11 tháng 12, 2013
TIẾN THÊM MỘT BƯỚC VỀ NƠI...VĨNH HẰNG
12/12/1934 - 12/12/2013
Đứa giàu sang cũng như thằng khố dây!
Thượng đế rất công bằng khi cho và chỉ cho mỗi con người một năm được thêm đúng 1 tuổi! Dù là Ông Tổng Bí thư, Bà đại tỷ phú hay Anh giáo còm, Chị đồng nát thì mỗi năm ai cũng được và chỉ được thêm có một tuổi mà thôi -
Thật là tuyệt đối công bằng!
Mỗi năm thêm một tuổi đời
Tiến thêm một bước về nơi vĩnh hằng!
Ông Trời thật quá công bằngĐứa giàu sang cũng như thằng khố dây!
Chúc mừng sinh nhật Cụ GIÁP TUẤT Trông Cụ vưỡn phong độ nhỉ! |
Người bạn đời hơn 40 năm đã cùng nhau trải qua 2 cuộc chiến tranh |
Hiệp I: Tại Nhà hàng Thái Lan - 84 LTK
Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013
Họp mặt cựu sinh viên Toán - Lý ĐHBK HN
Thứ bảy 16/11/2013...trời đầu đông se lạnh...bên Hồ Tây, mấy chục "Cụ" sinh viên Khóa Toán Lý ĐHBK Hà Nội của các khóa 12 (1967 - 1971), khóa 13 (1958-1973), khóa 14 (1969-1974) họp mặt cùng một số Thầy giáo cũ: Nguyễn Đình Trí, Lê Băng Sương, Thái Thanh Sơn, Nguyễn Xuân Chánh v...v... để cùng nhớ lại những ngày thơ mộng và hào hùng trên đất Lạng sơn, Hà Bắc giữa những năm chống Mỹ...
Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013
Kỷ niệm 20 năm Đại học Mở Hà Nội
20 năm ấy bây giờ là đây...
03/11/1993 - 03/11/2013
Sáng 30 tháng 10 năm 2013, tại Cung văn hóa Hữu nghị - Hà Nội,
Viện Đại học Mở Hà Nội đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 20 thành lập Viện...
Khai mạc.... |
Gặp lại mấy trò cũ... |
Nguyễn Kim Truy và Thái Thanh Sơn...
Cây nhà lá vườn ... hàng xóm... |
Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013
Vui ngày ra trường...
Ngày 26/10/2013, sau buổi bảo vệ thực hành tốt nghiệp,
hai khóa 02-11B và 02-10B đã cùng nhau tổ chức buổi gặp mặt thân mật tại khu sinh thái Vĩnh Hưng,
với sự tham gia nhiệt tình của đại diện K1, K2, K3 Việt Trì
Cô MC xinh đẹp |
Năm anh em trên một chiếc xe tăng... |
Những hình ảnh không bao giờ quên... |
Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013
Bài thực hành khóa 10
Bài tập thực hành
Các lớp chính qui niên chế và tín chỉ khóa 2010
___________________________________________________
* Xây dựng một website thực hiện các chức năng trong thương mại điện tử:
1/ E-Advertising (đầy đủ)
2/ E-Shopping: Lựa chọn các phương thức thanh toán khả thi
* Hướng dẫn:
1/ Về công nghệ:
- Có thể thiết kế website và tìm 1 Free Hosting để đưa lên mạng.
- Có thể sử dụng các hỗ trợ nguồn mở (chẳng hạn Yola, Joomla, Weebly...)
* Không tạo "gian hàng" trên các Siêu thị ảo có sẵn!
* Không tạo "gian hàng" trên các Siêu thị ảo có sẵn!
2/ Về ngành kinh doanh: tùy chọn
3/ Chú ý về hình thức trình bày, các tiện ích bổ trợ phù hợp
______________________________________________________
Phương thức nộp bài:
* Bài thực hành: Vào mục "nhận xét" ở cuối bài này, gửi:
- Địa chỉ URL của sản phẩm, tên sản phẩm
- Họ tên & lớp, khóa học của tác giả
- Địa chỉ Email của tác giả
(Hạn nộp cuối cùng: 24 giờ ngày 05/11/2013. Có thể nộp sớm để được xem và gợi ý sửa chữa)
* Quyển (nộp ngày 13.11/2013):
- Mỗi người đóng 1 quyển, bìa trình bày theo hình thức qui định của Khoa
- Nội dung gồm 2 phần:
Phần thực hành: Ghi tên, địa chỉ URL của sản phẩm, giới thiệu công nghệ sử dụng, thuyết minh các phần nội dung đã làm
Phần lý thuyết: - Viết tự luận ve vấn đề sau đây:
'Trình bày và phân tích hai phương thức Marketing: Marketing 4P và Marketing 4C. Nêu ưu việt của Marketing 4C và phân tích để thấy rõ Thương mại điện tử có khả năng thực hiện Marketing 4C'.
'Trình bày và phân tích hai phương thức Marketing: Marketing 4P và Marketing 4C. Nêu ưu việt của Marketing 4C và phân tích để thấy rõ Thương mại điện tử có khả năng thực hiện Marketing 4C'.
- Đến ngày thi, trả lời câu hỏi lý thuyết, nộp kèm vào.
Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013
Lao Cai...
Gửi LC509B1
Đề bài lý thuyết"
1/ Trình bày quan điểm Marketing 4C. Phân tích so sánh để chứng tỏ rằng Marketing 4C ưu việt hơn hẳn so với Marketing 4P.
2/ Nêu những ưu điểm của Mạng xã hôi & Blog để thực hiện Marketing 4C.
Đề thực hành:
1/ Trình bày quan điểm Marketing 4C. Phân tích so sánh để chứng tỏ rằng Marketing 4C ưu việt hơn hẳn so với Marketing 4P.
2/ Nêu những ưu điểm của Mạng xã hôi & Blog để thực hiện Marketing 4C.
Đề thực hành:
Sử dụng một tiện ích tạo BLOG tùy chọn (gợi ý: Blogspot.com) tạo một blog giao lưu trực tuyến với đối tác để thực hiện:
* Hoặc một cửa hàng ảo trong TMĐT (ngành hàng/dịch vụ...tùy chọn)
* Hoặc một lớp học ảo trong Đào tạo trực tuyến
* Hoặc một công cụ thông tin nội bộ của cơ quan, đơn vị...
* ...
______________________________________________________________________
- Thời gian hoàn thành: trước 24g ngày 01/11/2013
- Bài lý thuyết: Làm thành quyển theo mẫu thống nhất của Khoa, nộp về khoa trước ngày 01/11/2013.
- Bài lý thuyết: Làm thành quyển theo mẫu thống nhất của Khoa, nộp về khoa trước ngày 01/11/2013.
- Bài thực hành gửi vào phần"Đăng nhận xét (riêng)" ở cuối bài này với nội dung:
1/ Họ tên người thực hiện
2/ Địa chỉ Email của người thực hiện
3/ Đường dẫn - địa chỉ URL của sản phẩm.
Chúc các bạn hoàn thành tốt sản phẩm của mình!
Thứ Hai, 2 tháng 9, 2013
Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013
FITHOU - 20 năm nhìn lại (1)
Những chặng đường
tiến đến kỷ niệm 20 năm xây dựng và phát triển
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN – ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
FITHOU
Đây không phải là
một bản báo cáo tổng kết nhàm chán hay là những trang sử biên niên khô khan thông
thường . Đây là những hồi ức cá nhân
được ghi lại về những kỷ niệm, những sự việc, những câu chuyện đã xẩy ra, trộn
với những suy nghĩ riêng tư của tác giả trong những ngày đã sống, đã làm việc,
đã yêu thương, đã căm ghét, đã vui và đã buồn trong 20 năm qua dưới mái nhà thân
yêu của Khoa Công nghệ Thông tin – Viện Đại học Mở Hà Nội – với phương châm là chuyện vui thì cố nhớ, nhớ
nhiều và nhớ lâu hơn còn chuyện buồn thì gắng mà quên bớt –
1993 – 2013: Hai
mươi năm! Một đời người có được bao nhiêu lần 20 năm???
Ңеқоґда! Ңекоґда !
Я никогда не забуду этот сладкие воспоминания долгое время.
Ңеқоґда! Ңекоґда !
Я никогда не забуду этот сладкие воспоминания долгое время.
Thái Thanh Sơn
Sau 30 năm của
hai cuộc chiến tranh 1945 -1975, tiếp đó là hệ quả nặng nề của hơn một thập kỷ
cấm vận của đế quốc Mỹ và phe lũ, vào khoảng đầu những năm 80 của Thế kỷ trước,
đất nước chúng ta đang ở một tình trạng cực kỳ khó khăn về phát triển kinh tế,
xã hội. Do những điều kiện lịch sử, Việt Nam lúc đó ở vào một vị thế tách rời với
cộng đồng thế giới đang phát triển bùng nổ trong thời kỳ của Nền kinh tế mới –
Nền kinh tế Thông tin, nền kinh tế Tri thức, nền kinh tế Số.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, lần đầu
tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi vào văn kiện luận điểm quan trọng về phát
triển kinh tế tri thức (KTTT) với tư cách là một yếu tố mới cấu thành đường lối
Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước.
Đại hội XI Đảng
CSVN tiếp tục khẳng định: “Đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước gắn với phát triển KTTT...”. Điều đó thể hiện sự nhất quán, tầm nhìn xa và
tính nhạy bén của Đảng về vấn đề này.
Cho đến những ngày đầu bước
vào thời kỳ của công cuộc ĐỔI MỚI, đội ngũ trí thức của chúng ta, bao gồm cả những
người được đào tạo trong nước và ở các
nước XHCN Đông Âu cũ cũng như một số rất ít trí thức trước CM Tháng 8 và những
người được đào tạo trong chế độ cũ ở Miền Nam trước ngày giải phóng, đã thực sự
không còn đáp ứng được cho nhu cầu phát triển nhanh chóng của công cuộc Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa trước mắt, về mặt số lượng và cả về một số khía cạnh
nào đó của mặt chất lượng.
Nhà nước nói chung và ngành
Giáo dục – Đào tạo nói riêng cần tìm đến những đường lối, những phương thức đào
tạo mới.
Một trong những thể hiện của
đường lối đó của Nhà nước là Quyết định số 2236/TTG của Thủ tướng Chính phủ ban
hành ngày 17/02/1990, thành lập Viện Đào tạo Mở rộng I ở Hà Nội và Viện Đào tạo
Mở rộng II ở TP Hồ Chí Minh.
Đây là hai tổ chức đào tạo sau Trung học (Tertiary Education) được giao nhiệm vụ tìm tòi, nghiên cứu phương thức hoàn toàn mới nhằm
có thể đáp ứng cho nhu cầu NÂNG CAO DÂN TRÍ, ĐÀO TẠO NHÂN LỰC của Thời kỳ đổi mới.
· Phần I: BƯỚC ĐẦU CHẬP
CHỮNG (1992 – 1993)
Trong năm đầu tiên sau khi
thành lập, Viện ĐTMR I thử nghiệm tổ chức một vài Trung tâm – thiên về mặt dạy
nghề - đào tạo cán bộ trình độ sơ/trung cấp cho một số “NGHỀ” đang có nhu cầu
thực tiễn nóng : Trung tâm Tiếng Anh, Trung tâm Tin học và Trung tâm sửa chữa
cơ khí.
Trung tâm Tin học, được “ưu
tiên trang bị” 5 chiếc máy tính XT “Quả táo” (không có ổ cứng) do Cô LÊ HỒNG
NGA, nguyên đại úy thuộc Tổng cục Thông tin chuyển ngành phụ trách. Trước mắt,
học tập kinh nghiệm của Trung tâm Tin học ở Đại học Bách khoa HN và một số
Trung tâm dạy nghề của Hội Tin học Việt Nam, Trung tâm Tin học Viện ĐTMR I đã
đào tạo được một số khóa học viên biết một số kiến thức cơ bản về Tin học văn
phòng: sử dụng hệ điều hành MS DOS, soạn thảo văn bản bằng BKed, sử dụng hệ quản
tri Cơ sở dữ liệu FOXBase, sau đó tiến lên FOXPRO, dùng bảng tính Lotus 123…thời
gian đào tạo mỗi khóa từ 3 đến 6 tháng.
*Năm 1992, Bộ GD-ĐT điều động
PGS-TS NGUYỄN KIM TRUY nguyên Chủ nhiệm Khoa Kinh tế Hóa chất ĐHBKHN về làm Viện
trưởng Viện ĐTMR I khi Viện trưởng đầu tiên là
Kỹ sư TRẦN ĐÌNH TÂN nghỉ hưu. Để tăng cường năng lực cán bộ về các ngành
khoa học và công nghệ, Viện trưởng Nguyễn Kim Truy, bằng quan hệ của mình với
ĐHBK Hà Nội và với bạn bè trong giới khoa học, đã đề xuất và được Bộ GD-ĐT cũng như trường ĐHBK và các cơ quan
hữu quan khác chấp thuận biệt phái GS -
TSKH LÊ VĂN NHƯƠNG, Chủ nhiệm Khoa Công nghệ sinh học và PGS-TS THÁI THANH SƠN,
Phó Giám đốc Đại học Đại cương, TS Nguyễn Văn Thanh, Phó Chủ nhiệm Khoa Kỹ sư
kinh tế của ĐHBKHN, PGS-TS VŨ TIẾN CẢNH, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch,
TS HỒ PHONG TƯ và TS NGUYỄN VĂN LUẬT, cán bộ cao cấp thuộc Văn phòng chính phủ,
và PGS-TS NGUYỄN NGỌC DŨNG ở Trường Văn hóa nghệ thuật… sang công tác kiêm nhiệm
ở Viện Đào tạo MR I nhằm chủ trì chuẩn bị xây dựng một số ngành học về công nghệ
ở bậc đại học.
*Hai cán bộ đầu tiên của Khoa Tin học được PGS Thái Thanh Sơn nhận
về là Cao Mạnh Toàn, nguyên đại úy, giáo viên của một trường kỹ thuật trong
quân đội, đã chuyển ngành về Đại học đại cương ĐHBK Hà Nội rồi từ đó chuyển
sang và Nguyễn thị Thanh Thủy, sinh viên giỏi tốt nghiệp từ Đại học Thăng Long
- hồi đó là một Trung tâm đại học ngoài công lập duy nhất tại Việt Nam do Hội
trí thức người Việt tại Pháp đỡ đầu, do đó có cơ sở thực tập máy tính vào loại rất tốt so
với nhiều trường công lập đồng thời. Hai người này mãi về sau vẫn là những cán
bộ cốt cán, đảm nhiệm khâu quản lý đào tạo và quản lý sinh viên trong Khoa
*Thành công
quan trọng đầu tiên của Khoa CNTT sau này là đã vận động và mời được một số nhà
khoa học hàng đầu Việt Nam thời đó trong các lĩnh vực: Công nghệ thông tin, Toán
kinh tế và Quản lý về tham gia Hội đồng Khoa học và Đào tạo khóa I gồm:
1. Cố vấn khoa học : GS-TSKH PHAN ĐÌNH DIỆU, Phó Viện trưởng
Viện Khoa học Nhà nước, Viện trưởng Viện CNTT
2. Chủ tịch PGS-TS THÁI THANH SƠN
3. Phó chủ tịch thường trực: PGS-TS NGUYỄN ĐỨC NGHĨA
4, Phó chủ tịch: PGS-TS NGUYỄN XUÂN HUY
5. Ủy viên: GS-TS BẠCH HƯNG KHANG
4, Phó chủ tịch: PGS-TS NGUYỄN XUÂN HUY
5. Ủy viên: GS-TS BẠCH HƯNG KHANG
6. .. PGS–TS NGUYỄN GIA HIỂU
7. .. PGS-TSKH NGUYỄN QUANG THÁI
8. .. PGS-TS PHẠM VĂN ẤT
9. .. GVC-NGƯT DƯƠNG VIẾT THẮNG
10. ..
PGS – TS NGUYỄN ĐỊCH
Các ủy viên
trong Hội đồng đã thực sự nhiệt tình bắt tay xây dựng đề án tổ chức đào tạo ngành CNTT bậc đại học
tại Viện Đào tạo Mở rộng I Hà Nội với mục tiêu đào tạo, phương thức đào tạo đổi
mới trình Bộ Giáo dục và Đào tạo.
*Ngày 28/10/1992
Bộ Giáo dục và Đào tạo có quyết định cho phép đào tạo “thí điểm” bậc đại học cho
4 ngành: Quản trị doanh nghiệp, Kế toán. Tiếng Anh và Tin học tại Viện ĐTMR I.
Do kỳ thi tuyển sinh năm 1992 chung toàn quốc đã thực hiện xong trong tháng
7/1992 nên Bộ cho phép Viện ĐTMR I tự tổ chức kỳ thi tuyển sinh của từng ngành
vào đầu năm 1993. Để quản lý công tác đào tạo theo đúng qui chế đào tạo đại học, Viện trưởng Viện Đại học Mở Hà Nội ra QĐ số: 21/TCCB ngày 04/3/1993, thành lập 3 tổ chức quản lý đào tạo thuộc Viện là : Khoa Tin học, Khoa Ngoại ngữ và Khoa Quản trị - kinh doanh. Vì khi đó Viện Đào tạo Mở rộng I chưa được phép hoạt động theo qui chế trường đại
học nên sau khi Viện Đại học Mở Hà Nội thành lập ngày 3/11/1993, Bộ trưởng Trần Hồng Quân đã ký QĐ số 2663/ QĐ-TCCB, ngày 1/12/1993 chính thức hóa công nhậ 3 Khoa nói trên là Khoa đào tạo bậc đại học). Sau một
thời gian chuẩn bị, xây dựng chương trình, tổ chức bộ máy quản lý và đặc biệt
quan trọng là mời và được Bộ phê duyệt đội ngũ giảng viên, Khoa Tin học tổ chức
chiêu sinh (qua thi tuyển) và ngày
15/3/1993 đã khai giảng khóa đào tạo bậc đại học ngành CNTT đầu tiên của Khoa
với phiên hiệu là khóa 93-01A gồm 36 sinh viên cùng với lớp Chuyển tiếp và văn bằng 2 với phiên hiệu khóa 91-01A gồm 32 sinh viên: Tổng cộng toàn Khoa ngày khai giảng chỉ có đúng 68 sinh viên.
Khoa lấy tên chính thức là KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN- ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
– Faculty of Information Technology –
Hanoi Open University – FITHOU và lấy
Ngày 15/3 hàng
năm là ngày truyền thống của Khoa
Sau này mãi đến
ngày 03/11/1993 Thủ tướng Chính phủ mới ban hành quyết định số 535/TTG thành lập
Viên ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI hoạt động theo qui chế trường đại học công lập.(Một điều vui vui có thể gây khó hiểu là
Khoa lại được thành lập trước Viện!)
Theo quyết định thành lập ngày của Bộ Giáo
dục và đào tạo, Khoa
Công nghệ Thông tin Viện Đại học Mở Hà Nội được phép
đào tạo KỸ SƯ TIN HỌC:ở bậc đại học, mã ngành
đào tạo là: 01.02.10, với hai chuyên
ngành:
- Chuyên
ngành 01 -
Tin học quản lý
- Chuyên ngành 02 - Tin học ứng dụng
- Các hệ đào tạo :
+ Hệ chính quy
+ Hệ vừa học vừa làm ( tại chức cũ )
+ Hệ đào tạo từ xa
- Chuyên ngành 02 - Tin học ứng dụng
- Các hệ đào tạo :
+ Hệ chính quy
+ Hệ vừa học vừa làm ( tại chức cũ )
+ Hệ đào tạo từ xa
Ngoài ra, nhận
thấy nhu cầu bức thiết của xã hội , dựa theo kinh nghiệm đào tạo mềm dẻo
(flexible training) của nước ngoài, phù hợp với đường lối đa dạng hóa loại hình
đào tạo, mở cơ hội học tập cho mọi người của Viện Đại học Mở Hà Nội, Khoa đã chủ
động đề nghị Viện báo cáo với Bộ cho phép thử nghiệm 2 loại hình đào tạo mới. Hệ
“chuyển tiếp” lấy sinh viên đã học xong giai đoạn một - thời đó giáo dục đại học
còn thực hiện đào tạo theo 2 giai đoạn : giai đoạn đại học đại cương 1,5 đến 2
năm (tùy theo ngành) và giai đoạn chuyên ngành 2 đến 3 năm. Hệ “Chuyển đổi bằng”.tiếp
nhận những người đã có 1 bằng đại học, nay muốn học thêm văn bằng thứ hai về
chuyên ngành công nghệ thông tin. Khóa đào tạo đầu tiên của hệ này lấy phiên hiệu
là 91- 01 với 32 sinh viên nhập học (xét tuyển theo hồ sơ, không thi tuyển) cùng
khai giảng trong ngày 15/3/1993. Vì nhu cầu học của đối tượng này rất lớn
nên ngay tiếp sau đó 6 tháng lại tuyển
thêm khóa 91-02 có 67 sinh viên (xét tuyển) khai giảng vào thời điểm tuyển sinh
hệ chính qui năm 1993 của cả nước.
Cho đến thời
điểm năm 1993, trong cả nước chưa có tiền lệ về hai loại hình đào tạo mềm dẻo
đó nên việc tiến hành các hệ đào tạo này gặp không ít khó khăn khi phải chứng
minh được sự cần thiết và nhất là đảm bảo
chất lượng đào tạo của các hệ đó. Mãi đến năm 1995, sau khi đã có những sinh
viên đầu tiên tốt nghiệp, vẫn còn vướng mắc về chuyện cấp bằng: đầu tiên Bộ và
Viện chỉ đồng ý cấp bằng đào tạo theo hệ vừa học vừa làm, gần 2 năm sau mới được
đổi lại thành bằng đại học hệ chính qui! Đến năm 1993, khóa sinh viên hai hệ
chuyển đổi bằng – phiên hiệu 01-91-A01 và hệ chuyển tiếp – phiên hiệu 02-91-A01
tuy chỉ có 27 sinh viên tốt nghiệp (Sĩ số nhập học là 38) nhưng đã là một thực tế chứng minh rằng chủ trương
đào tạo hai hệ này là hoàn toàn đúng đắn, 100% sinh viên tốt nghiệp được các cơ
sở sử dụng tiếp nhận và nhiều người đã được giao trách nghiệm làm nòng cốt xây
dựng cơ sở cho việc ứng dụng CNTT ở cơ quan mình.
Một chi tiết khá thú vị là lễ bảo vệ tốt nghiệp của sinh viên
khóa này trùng vào dịp đang có một hội thảo quốc tế về CNTT do ĐHBK HN đăng cai
và do TS Nguyễn Thanh Thủy, giảng viên ĐHBK HN và là ủy viên Hội đồng khoa học
và đào tạo của Khoa chủ trì. TS Nguyễn Thanh Thủy đã đề nghị Viện ĐH Mở HN đồng
ý mời 2 giáo sư Pháp đến tham dự buổi bảo vệ tốt nghiệp của 27 sinh viên (khi nhập học là 32) cùng với
nhiều nhà khoa học đầu ngành ở các trường Đại học Bách khoa HN, Đại học Tổng hợp
HN và các Viện Toán học, Viện Công nghệ thông tin thuộc Viện khoa học Việt
Nam.. Trong khóa này có sinh viên Ninh Đức Thành, trước đây học xong Đại học đại
cương ở ĐH Thăng Long và đã đi thực tập Cao đẳng kế toán ở Pháp, sau đó về tham
dự đào tạo chuyển tiếp lên Kỹ sư Tin học tại Khoa. Để các giáo sư Pháp có thể
nghe và hỏi thử thí sinh, Hội đồng bảo vệ tốt nghiệp (trong đó có nhiều người
thành thạo tiếng Pháp) đã đề nghị anh Ninh Đức Thành báo cáo bằng 2 thứ tiếng
và trả lời trực tiếp bằng tiếng Pháp các câu hỏi của các giáo sư Pháp và của Hội
đồng. Việc làm này làm cho nhiều người đến dự buổi bảo vệ tốt nghiệp (trong đó
không ít người quản lý đào tạo và giảng viên ở các Trường bạn đến “thăm dò, xem
xét” rất ngạc nhiên, thích thú và cũng góp thêm uy tín cho Khoa.
Kinh nghiệm
đào tạo thành công bước đầu của hai hệ đó đã góp phần làm cơ sở thực tiễn để
sau này đến những năm 1996, 1997 Bộ Giáo dục và đào tạo chính thức cho phép đào
tạo cho nhiều chuyên ngành ở nhiều trường đại học trên phạm vi cả nước hai hệ
đào tạo mới: Hệ Văn bằng 2 – tức là hệ chuyển đổi bằng của
Khoa, và hệ Hoàn chỉnh kiến thức – tức
là hệ chuyển tiếp của Khoa (từ thời điểm 1998 về sau, bậc đại học không đào tạo
theo 2 giai đoạn nữa nên nguồn tuyển sinh hệ hoàn chỉnh kiến thức là những sinh viên tốt nghiệp Cao đẳng chuyển
lên). Khóa tuyển sinh đào tạo chính qui đầu tiên của Khoa lấy phiên hiệu
là 00-93A-01 đến năm 1997 tốt nghiệp chỉ
có 27 sinh viên nhưng đã đánh dấu một cột mốc quan trọng về năng lực tổ chức và
đào tạo của Khoa – đơn vị đào tạo bậc đại học ngành CNTT trẻ nhất trong số 7
đơn vị đào tạo ở các trường đại học công lập trong cả nước bên cạnh các trường
đại học lớn có truyền thống lâu năm như: ĐH Bách khoa HN và TPHCM, ĐH quốc gia
HN và TPHCM, Học viện kỹ thuật quân sự và Học viên Bưu chính viễn thông.
Kéo xuống, nhấn vào: "bài đăng cũ hơn" ở cuối trang để xem tiếp phần 2
Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013
FITHOU - 20 năm nhìn lại (2)
Ngay từ đầu, với tầm nhìn phát triển lâu
dài, Khoa CNTT – ĐHMHN qui định đặt phiên hiệu cho các khóa đào tạo của Khoa theo
kiểu “địa chỉ định danh” như sau:
Mã hiệu đầy đủ của khóa học: [xx] [xx] [yx] …
Cụm ký tự thứ nhất (hai số)
Ký tự thứ nhất (số) x: Chỉ địa phương đào tạo: Số 0 là Hà Nội, các số
khác gán cho Hải Phòng, Nam Định v..v..(Hiện nay đổi thành ký tự chữ cái đầu của
địa phương)
Ký tự thứ hai (số) x : Chỉ hệ
đào tạo : Số 0 là hệ đào tạo chính qui
1
văn bằng 2
2
liên thông, hoàn chỉnh kiến thức
3
tai chức, vừa học vừa làm
4
các hệ đào tạo chứng chỉ, kỹ
thuật viên
5
từ xa
6
v..v..
Cụm ký tự thứ hai (hai số): chỉ
năm nhập học – (chỉ cần cộng thêm 4 thì biết được năm tốt nghiệp (đối với hệ
chính qui/ vừa học vừa làm – đầu 0, đầu 3 – chỉ cần cộng thêm 2 thì biết năm tốt nghiệp
các hệ chuyển tiếp, văn bằng 2 – đầu 2 v..v..)
Cụm thứ ba (chữ +số) yx: Chữ y: Các khóa đào tạo chính qui đều khai giảng
nửa cuối năm (từ tháng 7 đến tháng 12) có ký hiệu là B, các hệ đào tạo khác có
thể có một kỳ tuyển sinh khai giảng vào nửa đầu năm (từ tháng 1 đến tháng 6) có ký hiệu là A còn kỳ cuối năm vẫn cõ ký hiệu
là B. Nhìn ký tự này có thể tính được khoảng tốt nghiệp ra trường của sinh viên
Số x: chỉ phiên hiệu của các lớp trong 1 khóa : lớp 1, 2, 3,…
Tiếp sau phiên hiệu khóa học là 3 con số chỉ mã số sinh viên
Chẳng hạn sinh
viên Nguyễn Văn X có mã số là : 00-04-B3-136 được hiểu là: Nguyễn Văn X học tại Hà Nội, hệ chính qui, nhập học cuối năm 2004, lớp
thứ 2, có số hiệu sinh viên là 136. Đây là một tài nguyên số duy nhất, với
ý đồ là sẽ được sử dung cho sinh viên sau này trong mọi giao dịch với Khoa: thẻ
sinh viên, mã số đăng nhập website và forum của Khoa v..v..)
Khóa học của
Nguyễn Văn X thường gọi tắt là khóa 04-B3, và có thể biết ngay là bình thường thì Nguyễn Văn X sẽ tốt nghiệp sau tháng 6 năm
2008.
*Các thầy cô quản
lý chủ chốt trong Khoa đều là những người có kinh nghiệm giảng dạy và tổ chức
quản lý giảng dạy hàng chục năm ở nhiều trường Đại học có truyền thống nên ngay từ đầu đã thống nhất
quan điểm, chủ trương và bắt tay vào một số công việc có tầm quan trọng hàng đầu.
Một thuận lợi
rất lớn trong giai đoạn này là Viện tạo điều kiện cho Khoa chủ động về mặt nhân
sự, hoàn toàn không có hiện tượng “ép gửi“ từ trên xuống (như vẫn thường thấy ở
nhiều cơ quan đơn vị…) do đó lãnh đạo Khoa có điều kiện triển khai những quan điểm
xây dựng đội ngũ của mình.
·
Trân trọng những thấy cô giáo nhiều kinh nghiệm: Muốn phát triển nhanh và có chất lượng, Khoa phải có chính sách thu
hút sự gắn bó lâu dài đối với đội ngũ giảng viên thỉnh giảng nhiệt tình và có
trình độ cao. Một số Thầy sau khi đến tuổi hưu trí, Khoa đã ký hợp đồng và đảm
bảo chế độ đối đãi như cán bộ cơ hữu của Khoa. Vì vậy mà một số Thầy
giáo có trình độ cao, có tiếng tăm trong ngành đã tự nguyện xem mình là người của
Khoa, luôn quan tâm và gắn bó với Khoa
như các Thầy Nguyễn Địch, Dương Viết Thắng (đã mất), Nguyễn Tài Hào, Đặng
Thành Phu, Bùi Công Cường, Thạc Bình Cường, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Tô Thành,
Ngô Thế Khánh, Bùi Tuấn Khang, Đoàn Văn Đức, Nguyễn Gia Hiểu, … Uy tín của đội ngũ Thầy giáo chất lượng cao
đó đã góp phần nâng cao uy tín và tín nhiệm của cho Khoa trong đào tạo và góp
phần tạo cho sinh viên lòng tự hào về Khoa mình, Thầy mình.
·
Tự đào tạo đội ngũ: Nhưng không thể chỉ dựa vào đội ngũ giáo viên thỉnh giảng ngày
càng hiếm hoi đó, muốn phát triển ổn định lâu dài, Khoa phải có lực lượng cơ hữu
của chính mình, do mình tạo nên. Từ 1995
khi Khoa có những khóa sinh viên tốt nghiệp đầu tiên (hệ chuyển tiếp), một số
sinh viên xuất sắc được giữ lại làm giảng viên cơ hữu hoặc cộng tác viên của
Khoa như Lương Cao Đông, Trương Tiến Tùng, Vũ Việt Anh... cùng với một số sinh
viên giỏi tốt nghiệp ở các Trường bạn được Khoa thu hút về như: Nguyễn thị Thanh
Thủy, Thái Thanh Tùng, .. đã là lực lượng giảng dạy nòng cốt trọng những năm đầu
cùng với đội ngũ các giảng viên thỉnh giảng. Tiếp đó Khoa có chủ trương cụ thể
đề nghị với Viện nhanh chóng chuẩn bị cho phép sớm tuyển dụng một số sinh viên
của Khoa tốt nghiệp xuất sắc của các khóa tiếp sau để bồi dưỡng thành đội ngũ
giảng viên cơ hữu của Khoa vì Khoa nhận thức rất rõ rằng: Chỉ có là cán bộ viên
chức cơ hữu thì mới hết lòng đi sâu tìm hiểu những đặc điểm của Khoa để nhanh
chóng đề xuất được những phương sách xây dựng Khoa hữu hiệu nhất. (Cần nói rằng,
chủ trương này của Khoa đã từng bị phê phán là “kém hiệu quả về mặt kinh tế” vì rõ ràng ai cũng biết là việc sử dụng
giáo viên thỉnh giảng “đơn giản” hơn và trách nhiệm nhẹ nhàng hơn nhiều so với
việc phải “cưu mang” một biên chế khá lớn trong hoàn cảnh đầu tư ban đầu của
Khoa còn rất khó khăn!). Nhờ chủ trương đúng đắn đó mà đến năm 1996, Khoa CNTT
là Khoa có tỷ lệ đội ngũ giảng dạy cơ hữu của Khoa so với số sinh viên cao nhất trong Viện.
·
Về mặt tổ chức, từ cuối năm
1995, ngoài Chủ nhiệm Khoa là PGS-TS Thái Thanh Sơn, Viện đã quyết định mời
thêm PGS-TS Nguyễn Đức Nghĩa khi đó đang làm Phó Chủ nhiệm Khoa CNTT ĐH Bách
khoa Hà Nội về kiêm nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Khoa. Với nhiệt tình đóng góp cho Khoa và Viện,
theo thông lệ cán bộ kiêm chức trong Bộ không được tham gia quản lý ở hai đơn vị
nên PGS Nguyễn Đức Nghĩa đã tự đề nghị từ nhiệm cương vị Phó Chủ nhiệm Khoa CNTT
ở ĐHBK Hà Nội để nhận chức vụ kiêm nhiệm ở Viện.
Trong năm 1995 ở Viện thành lập một khoa mới,
tên gọi chính thức theo quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo là Khoa Điện tử -
Viễn thông (Electronic &
Telecommunication). đào tạo kỹ sư Thông tin Vô tuyến điện và kỹ sư Điện tử.
Tuy nhiên Khoa bạn lại sử dụng tên gọi là Khoa Công nghệ Điện tử - Viễn thông –
Thông tin. Điều này có thể (và thực sự
là đã có) gây nhầm lẫn địa chỉ đào tạo trong Viện và làm cho không ít người tưởng
rằng Khoa CN Thông tin chỉ là một bộ phận của Khoa bạn. Để tránh nhầm lẫn, đôi
khi rất đáng tiếc, Khoa .đã đề nghị và được Viện chấp nhận đổi tên lần thứ nhất
thành Khoa Công nghệ Tin học nhưng
tên giao dịch tiếng Anh vẫn là Faculty of Information Technology - FITHOU
·
Về mặt cơ sở vật chất cho đào tạo, cũng như nhiều Khoa khác
trong Viện, trong những năm đầu Khoa gặp
vô vàn khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. Viện Đại học Mở Hà Nội là một
cơ sở đào tạo công lập nhưng không được Nhà nước cấp kinh phí. Ngoài ngân sách
cấp cho quỹ tiền lương cán bộ cơ hữu là công chức Nhà nước (đến năm 1996 cả
khoa chỉ có 01 biên chế công chức, từ 2001 tăng lên 3 biên chế, đến 2010 cũng
chỉ còn lại có 2 biên chê) thỉnh thoảng đôi ba năm có thêm một chút ngân sách dăm
ba chục triệu cho các đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp Viện. Nhưng cũng
vì là trường công lập nên không thể huy động vốn xã hội hóa, qua đóng góp cổ phần
như các trường tư thục, mặt khác vẫn cần phải thực hiện đúng qui định Nhà nước
về khung học phí của các trường công lập đồng thời thực hiện đầy đủ mọi chế độ
đối với đối tượng sinh viên thuộc diện chính sách (thường năm chiếm khoảng 8
-10% tổng cộng mọi khoản thu của Khoa). Năm đầu số lượng sinh viên còn ít, nhưng ngay
từ năm 1994 trở đi Khoa đã đối diện với khó khăn lớn về cơ sở vật chất cho đào
tạo: phòng học và phòng máy tính thực hành.
Khoa đã rất chủ động tìm mọi cách giải quyết
trong khả năng có thể.
Trong những học kỳ đầu, sinh viên các khóa
01-91, 02-91 và 00-93 thực tập tại phòng máy mini của Viện: ngoài 5 máy cũ thời
Trung tâm Tin học Viện Đào tạo Mở rộng I có được Bộ “san sẻ” thêm 3 máy tính AT
286 và AT 386 với ổ cứng 1MB và 3MB.
Do quan hệ cá nhân của các cán bộ giảng
viên trong Khoa, Khoa liên hệ được để thuê cho sinh viên đến thực tập thêm tại
Phòng máy tính của Đại học Thăng Long – là một trường đại học dân lập nhưng
trong những khóa đầu 1991 – 1996, ĐH Thăng Long trực tiếp được Hội trí thức Người
Việt ở Pháp hỗ trợ kinh phí qua sự vận động của Giáo sư Bùi Trọng Liễu, tiếp đó
sau chuyến ghé thăm của Phu nhân Tổng thống Pháp là Danièle Mitterand năm 1994,
lại được tiếp nhận sự đỡ đầu của Hội Hoa
Hồng nước Pháp do Bà làm chủ tịch nên
vào thời đó họ có phòng máy tính thực hành cho sinh viên vào loại tốt nhất ở Hà
Nội.
* Những
khóa sinh viên đầu tiên: Tuy khó khăn như vậy nhưng chỉ trong vòng 2 năm, đến
hết năm 1995 Khoa CN Tin học Đại học Mở Hà Nội đã đào tạo ra trường được 95 kỹ
sư Tin học (hai khóa 91-01 và 91- 02). Tất cả sinh viên ra trường đều được tiếp
nhận ngay vào nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội: có uy tín như: Vụ
Thông tin cơ quan TƯ Đảng, Ngân hàng BIDV, Tổng cục Bưu điện truyền thanh, Tổng
cục Đường sắt …một số được về nhận công tác giảng dạy tại các trường đại học,
cao đẳng như Đại học Thủy lợi, Học vịên Ngân hàng, Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội
(nay là Đại học công nghiệp Hà Nội)…
·
Nghiên cứu khoa học và quan hệ quốc tế. Nghiên cứu khoa học là một hoạt động song song với hoạt động
đào tạo trong các trường đại học. Tuy Khoa mới thành lập lực lượng còn rất mỏng
nhưng nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học trong trường đại
học, Khoa đã chủ động ngay từ đầu hướng cán bộ trẻ và cả những sinh viên các
năm cuối trong Khoa nhanh chóng tiếp cận các đề tài nghiên cứu khoa học về quản
lý và sản xuất phục vụ trực tiếp cho những địa chỉ ứng dụng cụ thể. Nhiều trường
đại học và nhất là các cơ quan nhà nước khác thường xuyên có nguồn kinh phí đối
ngoại rất lớn nên hàng năm thường tổ chức nhiều đợt “tham quan khảo sát” ở nước
ngoài cho rất rất nhiều cán bộ trong cơ quan. Nhưng phải lưu ý rằng Khoa CNTH –
ĐHMHN hoàn toàn không có ngân sách nhà nước cũng như nguồn kinh phí rót từ Viện
và Bộ cho nên Khoa tổ chức được những đợt công tác học tập trao đổi kinh nghiệm
sang nước ngoài là hoàn toàn do quan hệ của lãnh đạo Khoa tìm kiếm tài trợ từ
các trường bạn nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
Năm 1992 và 1993, Chủ nhiệm Khoa được Viện
trưởng ủy nhiệm đại diện tham dự Hội thảo quốc tế về đào tạo từ xa trong khối
các quốc gia sử dụng Tiếng Pháp – CIFFAD – Commission
Internationale de Formation à Distance - tại đảo quốc Mauritius và tiếp đó là khóa tập
huấn quốc tế sau Tiến sĩ – formation Post-Doc
- tại Đại học quốc tế Bordeaux – EIB - Ecole Internationale de Bordeaux – Do những
đóng góp tích cực và có hiệu quả, đại biểu của Viện đã được mời tham gia Hiệp hội
Văn hóa khoa học pháp ngữ - ACCT – từ năm 1995.
Khoa đã chủ động quan hệ trực tiếp và tổ chức
được những chuyến viếng thăm và làm việc quan trọng tai: Đại học quốc gia - NUS
– và Đại học kỹ thuật NanYang – NTU - ở Singapore năm 1994, Đại học Công nghệ
Sydney – UTS -, Học viện công nghệ Đông Melbourne- ở Australia năm 1995.
Tiếp ngay sau đó đoàn đại biểu Học viện
Công nghệ Đông Melbourne do Bà Phó hiệu trưởng Moira Schulze dẫn đầu, có thành
viên là Chủ nhiệm khoa Khoa học máy tính của Trường sang thăm làm việc với Viện
và Khoa và đã tặng Khoa 2 suất học bổng Cao học từ năm 1996 cho 2 cán bộ trẻ
trong Khoa (kể cả bổ túc tăng cường Tiếng Anh 6 tháng tại trường AMES – trường chuyên dạy tiếng Anh cho người
không bản ngữ)
GS Thái Thanh Sơn tham dự
Hội đồng trao bằng tốt nghiệp năm 1995
tại Sydney University of Technology, Sydney
Tuy lực lượng ban đầu còn rất mỏng nhưng
Khoa đã mạnh dạn xác định hướng nghiên cứu đúng đắn lâu dài của Khoa là nghiên
cứu ứng dụng CNTT trong đào tạo từ xa và đào tạo Mở. Cán bộ của Khoa đã nhận chủ
trì một đề tài nhánh trong đề tài khoa học cấp Nhà nước đầu tiên của Viện
: Nghiên cứu đề án phát triển ĐTTX và
đào tạo mở ở Việt Nam trong giai đoạn 1995 – 2000 do Viện trưởng Nguyễn Kim
Truy chủ trì.
Một số sinh viên khóa 91-01 như Trương Tiến
Tùng, Vũ Việt Anh, Đặng Trần Phú … trong thời gian cuối chuẩn bị tốt nghiệp đã
tham gia thực hiện chính trong đề tài nhánh đó. Đề tài chung đã được báo cáo
nghiệm thu cuối năm 1996 và được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước đánh giá vào
loại xuất sắc.
Với những kết quả cụ thể của đề tài cấp Nhà
nước nói trên và những nghiên cứu phát triển bổ sung của Thầy trò trong Khoa về
mặt công nghệ, năm 1995 trong hội nghị của tổ chức UNESCO - APEID – tổ chức
phát triển giáo dục Châu Á – Thái Bình dương thuộc UNESCO tại Bangkok và năm 1996 trong hội nghị quốc tế
về giáo dục do Bộ Giáo dục – Đào tạo VN và Bộ Giáo dục Tây Australia đồng tổ chức
tại Hà Nội, đại diện Khoa đã có những
báo cáo khoa học được đánh giá cao và được đăng tải vào kỷ yếu của các hội nghị.
Chủ nhiệm Khoa – GS Thái Thanh Sơn - được bầu làm thành viên chính thức của
UNESCO – APEID nhiệm kỳ 1996 – 2000 (và hai nhiệm kỳ tiếp sau đó).
Thế là chỉ trong một thời gian rất ngắn
chưa đầy 5 năm kể từ ngày thành lập, vượt qua vô vàn khó khăn, Khoa Công nghệ Tin
học – Đại học Mở Hà Nội đã xây được những cột mốc vững vàng cho bước phát triển
mạnh mẽ tiếp sau.
Kéo xuống, nhấn vào : "Bài đăng cũ hơn " để xem tiếp phần 3
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)