Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

 BÃO NĂM NAY (2025) NHỚ MỘT VỤ LỤT NĂM XƯA (1971) VỚI TỔ TOÁN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI…

TRONG CƠN BÃO NĂM NAY (2025) NHỚ LẠI MỘT TRẬN LỤT NĂM XƯA(1971) - VỚI TỔ TOÁN ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI. 

Trong giai đoạn ngay truớc giải phóng miền Nam, vào những năm l97l - 72 có rất nhiều kỷ niệm với anh em làm Toán ứng dụng trong bộ môn Toán – Đại học Bách kho Hà Nội chúng tôi.
Năm l971, trận lụt lớn lịch sử làm vỡ đê Cống Thôn ở Bắc Cầu Đuống. Hàn khẩu đê và khắc phục lũ lụt là một nhiệm vụ trọng tâm của mọi ngành, mọi cấp, của cả toàn dân, của cả miền Bắc trong thời kỳ đó: Phải nhanh chóng hàn khẩu trước ngày Quốc khánh 2/9 trong tình hình nước lũ đang lên, để cho hàng vạn dân trong vùng lũ ở 3 tỉnh Hà Bắc, Hưng Yên, Hải Dương kịp thời làm vụ mùa.
Cũng như nhiều cơ quan, đơn vị khác ở quanh Hà Nội, trường ĐHBK cũng cử một đoàn “dân công” tham gia lực lượng chống lụt – ngày đêm ăn ở làm việc 3 ca thay đổi trên công trường Cống Thôn.
Không chỉ tham gia đóng góp sức lao động “cơ bắp” trường ĐHBK Hà Nội cũng đã đóng góp một phần lao động “trí óc’ của mình.
+ Trường ĐHBK đã mạnh dạn đề xuất và được giao đảm nhiệm giải quyết một số khó khăn lớn chung trong cơn lụt này. Sân vận động Bách Khoa khi đó đã trở thành một một công trường lớn, cán bộ, công nhân viên các khoa kỹ thuật: Cơ, Điện, Hoá v..v.. đảm nhận khôi phục, bảo dưõng hàng trăm tấn thiết bị, máy móc bị hư hỏng do ngập lụt từ nhiều nơi đưa về.
+ Một khó khăn mới lại xuất hiện khi bắt đầu đổ đất đá hàn khẩu. Cỗ miệng đê vỡ tốc độ chảy và xoáy nước rất mạnh, bao tải đất hay đá hộc hơn nửa tạ ném xuống cứ trôi phăng đi chẳng có tác dụng gì. Kinh nghiệm hàn khẩu đê khi nước xoáy quá mạnh là phải hàn thép thành những cái lồng, nạp đầy đá hộc như những con ‘Rồng đá” nặng hàng mấy chục tấn rồi dùng cần cẩu ném vào chỗ đê vỡ: như vậy mới có tác dụng. Nhưng nếu muốn đan và hàn lồng thép thì phải tập kết vật tư, thiết bị về để thi công. Mà ven đê thì không gian chật hẹp, đường cho xe tải trọng nặng vào ra khó khăn, lại không có sẵn đường điện…
Nhà trường đề xuất đảm nhận luôn nhiệm vụ đan hàng nghìn lồng dây thép để chuyển sang công trường đổ đầy đá hộc dùng cần cẩu ném xuống để hàn khẩu chỗ đê vỡ.
+ Để giảm nhẹ lao động nặng nhọc và tăng năng suất cho việc vận chuyển các bao tải đất từ trên đỉnh đê xuống mép sông để hàn khẩu chỗ đê vỡ, bộ môn khí đã đề xuất một sáng kiến rất thô sơ, đơn giản mà có hiệu quả quả nâng cao năng suất gấp mấy lần: đó là sử dung hệ thống hệ thống tời teleferique” với trang thiết bị đơn giản chỉ gồm một mô tơ nhỏ , một dãy cọc đỡ 2 dây cáp dọc từ đỉnh đê xuống chân đê. Sáng kiến nhanh chóng được Bộ Chỉ huy công trường tuyên dương và cho phổ biến đến các đơn vị khác.
+ Bộ môn Toán chúng tôi khi đó có hơn 20 thanh niên khoẻ mạnh cũng được huy động cùng vói các bộ môn Vật lý, bộ môn Hình hoạ và bộ môn Cơ lý thuyết thành lập một đại đội được biên chế đến công trường “làm việc” : nghĩa là đào đất, nạp đất và đá hộc vào các bao tải hay các lồng sắt, vận chuyển – nghĩa là “khiêng và gánh” các bao tải đất và lồng đá từ chỗ đóng bao đến nơi được chỉ định : đến đầu tời teleferique hay xuống tận chân đê… như tất cả mọi tốp dân công khác – thay nhau làm việc liên tục ba ca mỗi ngày..
Một hôm, chúng tôi thấy trong trung đội Toán xuất hiện 3 người lạ mặt cùng đến tham gia làm việc từ sáng sớm: hai cậu thanh niên khoẻ mạnh mặc quân phục không đeo quân hàm đi kèm một người lớn tuổi trông rất quen mặt: -“A! Thì ra là thầy Bửu!” . Thầy Tạ Quang Bửu khi đó không còn làm hiệu trưởng ĐHBK nữa mà đã lên làm Bộ trưởng Bộ Đại học & THCN nhưng vẫn rất quan tâm đến trường ĐHBKHN và đặc biệt gắn bó với Tổ Toán. Thầy tham gia gánh đất 2, 3 chuyến đi theo các đội vận chuyển dọc ven đê. Sau một lúc quan sát tình hình chung, 2 người bảo vệ đi theo đề nghị chúng tôi chỉ bố trí thầy đứng xúc đất tại chỗ, không để thầy gánh đất đi lại nữa vì thầy đã quá lớn tuổi mà đường sá trong công trường rất mấp mô, nguy hiểm. Một lúc sau nữa, có lẽ được báo tin, tướng Hồng Sơn đang trực chỉ huy cũng chạy đến gặp và mời thầy lên bộ chỉ huy trao đổi với trưởng ban chỉ đạo của công trường là Phó thủ tướng Đỗ Mười. Thầy cười bảo: -“ Anh về trước đi, tôi nói chuyện với anh chị em mấy phút đã nhé…”. Nói xong thầy quay sang phía chúng tôi: -“ Xin ban chỉ huy đại đội mấy phút , tôi vẫn là người Bách khoa đây, tôi có vài ý kiến với các bạn trẻ nhé!”
Rất ngắn gọn, thầy nhỏ nhẹ khen và động viên chúng tôi vài câu rồi nhấn mạnh:
- “Lúc nước sôi lửa bỏng, nước lụt tứ bề, các cô các cậu cùng lao động với nhân dân đó là điều rất đúng. Nhưng mình là người có trí thức, phải làm sao cho hiệu quả lao động của mình và của mọi người cùng làm việc đều tăng lên: đó mới là điều căn bản. Nhà trường đề xuất ý kiến không làm lồng sắt ngay trên đê mà lại tập kết vật tư về sân vận động BK gia công rồi chuyển lên, bên Cơ khí áp dụng cái tời teleferique kia, đơn giản mà hiệu quả… Đấy mới là suy nghĩ của con người khoa học khi tham gia lao động. Các cậu tổ Toán đâu rồi, mình là dân Toán, nhưng là toán trong một nhà trường công nghệ đấy nhé, cố suy nghĩ xem những điều mình đã học, đã nghiên cứu có giúp ích được gì cụ thể trên công trường này không? ”
Thực ra thì trong mấy ngày qua, tôi và mấy anh em chúng tôi đang tham gia xê mi na về Toán ứng dụng và Vận trù học ở Uỷ ban Khoa học Nhà nước do anh Hoàng Tuỵ hướng dẫn cũng đã rất băn khoăn. Ngoài việc tham gia dân công hộ đê như mọi người dân trong thành phố, chúng tôi cũng rất muốn làm sao có thể đóng góp lớn hơn vào nhiệm vụ chung, không phải chỉ dùng cơ bắp mà còn dùng đến đầu óc, đóng góp được bằng chuyên môn của mình như các khoa khác trong trường?
Mấy hôm sau, tôi đã đề xuất với Bộ môn Toán và với Nhà trường, trình lên Bộ Đại học và THCN, Thành phố Hà Nội và Ban Chỉ huy công trường, cho phép thành lập một tổ công tác Vận trù học gồm một số người ở Bộ môn Toán ĐHBKHN do tôi và anh Dương Viết Thắng phụ trách, phối hợp với một số người ở ĐH Tổng hợp do anh Bùi Công Cường phụ trách, đề nghị sang tham gia tại công trường T80 - bí danh của công trường hàn khẩu đê Cống Thôn do tướng Phạm Hồng Sơn làm chỉ huy trưởng và Phó Thủ tướng Ðỗ Mười làm Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước.
Tất nhiên là Bộ chỉ huy công trường tiếp nhận chúng tôi, ban đầu thấy trong giấy giới thiệu là cán bộ giảng dạy ngành Toán ở 2 trường Đại học thì bố trí về hỗ trợ cho bộ phận kế toán của công trường theo dõi thống kê hàng ngày – bộ phận này cũng rất nhiều việc dùng đến “Toán”(!)
Có một số anh em phản ứng, nhưng tôi và anh Cường làm công tác tư tưởng tốt và anh em đều nghiêm chỉnh chấp hành phân công của ban Chỉ huy. Nhưng mặt khác chúng tôi yêu cầu anh em chú ý tìm hiểu, theo dõi tình hình để tìm ra khâu ách tắc căng thẳng nhất trong toàn bộ hoạt động của công trường – theo mô hình sơ đồ PERT. Sau mấy ngày quan sát tỉ mỉ, anh em trong tổ đã nắm bắt được những vấn đề chính đang đặt ra.
Căng thẳng nhất trên toàn công trường chính là khâu vận chuyển đất đá. Phạm vi khu vực công trường từ Ô Cách đến Cầu Đuống chỉ khoảng 3km, đường giao thông nội bộ rất chật chội mà suốt ngày đêm 24 tiếng có gần 300 xe tải, máy ủi, cần trục đi lại 2 chiều, chen chúc với trên 3000 bộ đội, dân công nên tốc độ thi công chung rất chậm chủ yếu là do khâu vận chuyển. Phó thủ tướng Đỗ Mười thay mặt chính phủ, cho phép Công trường quyền ưu tiên cao nhất: thiếu người, điều người , thiếu phương tiện vật tư điều ngay phương tiện vật tư…Có lần trong buổi hội báo, bên dưới báo cáo lên: bộ phận cần cẩu luôn sẵn sàng nhưng luôn thiếu đá: Thao tác đổ một chuyến mất chỉ 20 phút nhưng xong rồi phải chờ 20 phút nữa mói có chuyên sau đến . Bộ chỉ huy quyết định luôn: Lệnh khẩn cấp ngay trong đêm, ngày mai điều động mọi nơi có thể có để tăng số lượng xe chở đất lên gấp đôi! Tăng số dân công phục vụ đất đá lên gấp đôi! Quân lệnh như sơn: Ngày mai số xe tải và dân công quả nhiên được điều thêm về công trường gần gấp đôi.
Thế nhưng càng nhiều xe nhiều người thì tốc độ xe cho mỗi chuyến lại càng tăng gấp- mấy lần! Tốc độ thi công chung không tăng lên mà lại có phần giảm xuống…
+ Trong một buổi giao ban ban tham mưu, Tổ Vận trù học đã đề xuất một giải pháp cụ thể - dựa theo thuật toán Ford – Fulkerson trong lý thuyết về luồng cực đại. Tất nhiên khi trình bày thì không đao to búa lớn gì cả mà chỉ nêu cụ thể: Mạnh dạn: Giảm số xe, máy và nhân công xuống chỉ còn 80%, nhưng lại tạo đường vòng vaanju chuyển 1 chiều tổng chiều dài hơn tuyến đường thi công đi về hiện có đến 60% nhưng toàn tuyến chỉ đi theo 1 chiều, xe nhận vật liệu đi đến trạm cần cẩu trút vật liệu xong đi tiếp vòng về theo đường khác. Các xe tải có thể vừa đi với tốc độ chậm vừa nhận và trút vật liệu trên cả một đoạn dài mà không ngừng hẳn lại.
Giải pháp của anh em trình bày trong buổi giao ban hàng ngày khá đột ngột, nhất là ý kiến giảm số xe và người hoạt động trên công trường, trong ban tham mưu nhiều người tỏ vẻ nghi ngờ. Tuy nhiên tướng Phạm Hồng Sơn là người tinh tế và khá quyết đoán nên đã đề nghị Phó thủ tướng Đõ Mười cho phép thí điểm trong 3 ngày.
Quả nhiên thực hiện thí điểm có kết quá rất tốt, năng suất cao vọt hẳn lên. Ngay sau đó tổ công tác đã được Ban chỉ huy quyết định cho tham gia vào làm một thành viên của Ban Tham mưu công trường, đặc trách công tác điều độ kế hoạch.
Phải thấy tình hình khẩn trương chạy đua với thời vụ trên một công trường với diện tích vài ba km2, tập trung một lực lượng lao động vài nghìn dân công và hai Sư đoàn quân đội với hơn 300 xe tải, máy móc thiết bị... mới hình dung sự phức tạp của công tác điều độ kế hoạch lúc đó.
Kết thúc chiến dịch, Trường ĐHBK HN được tặng thưởng Huân chương Lao động, bộ môn Toán và một đồng chí cán bộ trong bộ môn được tặng bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, một đánh giá xứng đáng của Nhà nước.
Điều này càng làm cho chúng tôi tin tưởng thêm vào khả năng ứng dụng toán học vào thực tế của mình.
                                                                            THÁI THANH SƠN


Thứ Hai, 18 tháng 9, 2023

HÀM BĂM - HASH FUNCTION

    GIỚI THIỆU VỀ HÀM BĂM 


  Hàm băm thông dụng là một phép biến đổi một dãy "số" hoặc một dã "số và chữ cái" thành một số nguyên (khá bé):

                             H(k) = n

Biến đổi hàm băm là một đối một một chiều, nghĩa là nếu có k1 =/= k2 thì chắc chắn n1 =/n2 nhưng điều ngược lại không chắc đúng.

Hash Function is a function that converts a given numeric or alphanumeric key to a small practical integer value. The mapped integer value is used as an index in the hash table. In     simple terms, a hash function maps a significant number or string to a small integer that can be used as the index in the hash table.

The pair is of the form (key, value), where for a given key, one can find a value using some kind of a “function” that maps keys to values. The key for a given object can be calculated using a function called a hash function. For example, given an array A, if i is the key, then we can find the value by simply looking up A[i].
Types of Hash functions
There are many hash functions that use numeric or alphanumeric keys. This article focuses on discussing different hash functions:
  1. Division Method.
  1. Mid Square Method.
  1. Folding Method.
  1. Multiplication Method.
Let’s begin discussing these methods in detail.
1. Division Method:
This is the most simple and easiest method to generate a hash value. The hash function divides the value k by M and then uses the remainder obtained.
Formula:
h(K) = k mod M
Here,
k is the key value, and 
is the size of the hash table.
It is best suited that is a prime number as that can make sure the keys are more uniformly distributed. The hash function is dependent upon the remainder of a division. 
Example:
k = 12345
M = 95
h(12345) = 12345 mod 95 
               = 90
k = 1276
M = 11
h(1276) = 1276 mod 11 
             = 0
Pros:
  1. This method is quite good for any value of M.
  1. The division method is very fast since it requires only a single division operation.
Cons:
  1. This method leads to poor performance since consecutive keys map to consecutive hash values in the hash table.
  1. Sometimes extra care should be taken to choose the value of M.
2. Mid Square Method:
The mid-square method is a very good hashing method. It involves two steps to compute the hash value-
  1. Square the value of the key k i.e. k2
  1. Extract the middle r digits as the hash value.
Formula:
h(K) = h(k x k)
Here,
is the key value. 
The value of can be decided based on the size of the table.
Example:
Suppose the hash table has 100 memory locations. So r = 2 because two digits are required to map the key to the memory location.
k = 60
k x k = 60 x 60
        = 3600
h(60) = 60
The hash value obtained is 60
Pros:
  1. The performance of this method is good as most or all digits of the key value contribute to the result. This is because all digits in the key contribute to generating the middle digits of the squared result.
  1. The result is not dominated by the distribution of the top digit or bottom digit of the original key value.
Cons:
  1. The size of the key is one of the limitations of this method, as the key is of big size then its square will double the number of digits.
  1. Another disadvantage is that there will be collisions but we can try to reduce collisions.
3. Digit Folding Method:
This method involves two steps:
  1. Divide the key-value into a number of parts i.e. k1, k2, k3,….,kn, where each part has the same number of digits except for the last part that can have lesser digits than the other parts.
  1. Add the individual parts. The hash value is obtained by ignoring the last carry if any.
Formula:
k = k1, k2, k3, k4, ….., kn
s = k1+ k2 + k3 + k4 +….+ kn
h(K)= s
Here,
is obtained by adding the parts of the key k
Example:
k = 12345
k1 = 12, k2 = 34, k3 = 5
s = k1 + k2 + k3
  = 12 + 34 + 5
  = 51 
h(K) = 51
Note:
The number of digits in each part varies depending upon the size of the hash table. Suppose for example the size of the hash table is 100, then each part must have two digits except for the last part which can have a lesser number of digits.
4. Multiplication Method
This method involves the following steps:
  1. Choose a constant value A such that 0 < A < 1.
  1. Multiply the key value with A.
  1. Extract the fractional part of kA.
  1. Multiply the result of the above step by the size of the hash table i.e. M.
  1. The resulting hash value is obtained by taking the floor of the result obtained in step 4.
Formula:
h(K) = floor (M (kA mod 1))
Here,
is the size of the hash table.
is the key value.
is a constant value.
Example:
k = 12345
A = 0.357840
M = 100
h(12345) = floor[ 100 (12345*0.357840 mod 1)]
               = floor[ 100 (4417.5348 mod 1) ]
               = floor[ 100 (0.5348) ]
               = floor[ 53.48 ]
               = 53
Pros:
The advantage of the multiplication method is that it can work with any value between 0 and 1, although there are some values that tend to give better results than the rest.
Cons:
The multiplication method is generally suitable when the table size is the power of two, then the whole process of computing the index by the key using multiplication hashing is very fast.

   MỘT SỐ HÀM BĂM THÔNG DỤNG

                                                     Commonly used hash functions 

Hash functions are widely used in computer science and cryptography for a variety of purposes, including data integrity, digital signatures, password storage, and more.
There are many types of hash functions, each with its own strengths and weaknesses. Here are a few of the most common types:
1. SHA (Secure Hash Algorithm): SHA is a family of cryptographic hash functions designed by the National Security Agency (NSA) in the United States. The most widely used SHA algorithms are SHA-1, SHA-2, and SHA-3. Here’s a brief overview of each:
  • SHA-1: SHA-1 is a 160-bit hash function that was widely used for digital signatures and other applications. However, it is no longer considered secure due to known vulnerabilities.
  • SHA-2: SHA-2 is a family of hash functions that includes SHA-224, SHA-256, SHA-384, and SHA-512. These functions produce hash values of 224, 256, 384, and 512 bits, respectively. SHA-2 is widely used in security protocols such as SSL/TLS and is considered secure.
  • SHA-3: SHA-3 is the latest member of the SHA family and was selected as the winner of the NIST hash function competition in 2012. It is designed to be faster and more secure than SHA-2 and produces hash values of 224, 256, 384, and 512 bits.
2. CRC (Cyclic Redundancy Check): CRC is a non-cryptographic hash function used primarily for error detection in data transmission. It is fast and efficient but is not suitable for security purposes. The basic idea behind CRC is to append a fixed-length check value, or checksum, to the end of a message. This checksum is calculated based on the contents of the message using a mathematical algorithm, and is then transmitted along with the message. 
When the message is received, the receiver can recalculate the checksum using the same algorithm, and compare it with the checksum transmitted with the message. If the two checksums match, the receiver can be reasonably certain that the message was not corrupted during transmission.
The specific algorithm used for CRC depends on the application and the desired level of error detection. Some common CRC algorithms include CRC-16, CRC-32, and CRC-CCITT.
3. MurmurHash: MurmurHash is a fast and efficient non-cryptographic hash function designed for use in hash tables and other data structures. It is not suitable for security purposes as it is vulnerable to collision attacks.
4. BLAKE2: BLAKE2 is a cryptographic hash function designed to be fast and secure. It is an improvement over the popular SHA-3 algorithm and is widely used in applications that require high-speed hashing, such as cryptocurrency mining.
BLAKE2 is available in two versions: BLAKE2b and BLAKE2s. BLAKE2b is optimized for 64-bit platforms and produces hash values of up to 512 bits, while BLAKE2s is optimized for 8- to 32-bit platforms and produces hash values of up to 256 bits.
5. Argon2: Argon2 is a memory-hard password hashing function designed to be resistant to brute-force attacks. It is widely used for password storage and is recommended by the Password Hashing Competition. The main goal of Argon2 is to make it difficult for attackers to crack passwords by using techniques such as brute force attacks or dictionary attacks. It achieves this by using a computationally-intensive algorithm that makes it difficult for attackers to perform large numbers of password guesses in a short amount of time.
Argon2 has several key features that make it a strong choice for password hashing and key derivation:
  • Resistance to parallel attacks: Argon2 is designed to be resistant to parallel attacks, meaning that it is difficult for attackers to use multiple processing units, such as GPUs or ASICs, to speed up password cracking.
  • Memory-hardness: Argon2 is designed to be memory-hard, meaning that it requires a large amount of memory to compute the hash function. This makes it more difficult for attackers to use specialized hardware to crack passwords.
  • Customizable: Argon2 is highly customizable, and allows users to adjust parameters such as the memory usage, the number of iterations, and the output length to meet their specific security requirements.
Resistance to side-channel attacks: Argon2 is designed to be resistant to side-channel attacks, such as timing attacks or power analysis attacks, that could be used to extract information about the password being hashed.
6. MD5 (Message Digest 5): MD5 is a widely-used cryptographic hash function that produces a 128-bit hash value. It is fast and efficient but is no longer recommended for security purposes due to known vulnerabilities. The basic idea behind MD5 is to take an input message of any length, and produce a fixed-length output, known as the hash value or message digest. This hash value is unique to the input message, and is generated using a mathematical algorithm that involves a series of logical operations, such as bitwise operations, modular arithmetic, and logical functions.
MD5 is widely used in a variety of applications, including digital signatures, password storage, and data integrity checks. However, it has been shown to have weaknesses that make it vulnerable to attacks. In particular, it is possible to generate two different messages with the same MD5 hash value, a vulnerability known as a collision attack.
There are many other types of hash functions, each with its own unique features and applications. The choice of hash function depends on the specific requirements of the application, such as speed, security, and memory usage.
Last Updated : 09 Mar, 2023

Thứ Tư, 7 tháng 6, 2023

 THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG THỜI ĐẠI SỐ


Học phần

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 

Module: E.COMMERCE

e Course of FITHOU

Lecturers:

Prof. THAI THANH SON, Ph. D.
THAI THANH TUNG, Ph. D.



Thứ Tư, 26 tháng 10, 2022

Thứ Tư, 30 tháng 3, 2022

Kể chuyện Ông nội tôi

  • THÁI Y VIỆN TRƯỞNG
  • QUANG LỘC TỰ THIẾU KHANH
  • THÁI VĂN TỐ

Sống mãi trong lòng dân...




NHỚ LẠI VỀ MỘT CƠN ĐẠI DỊCH NĂM XƯA.
MỘT CÂU CHUYỆN VỀ ÔNG NỘI TÔI
(Cho cháu con ghi nhớ kẻo vài ba năm nữa tôi về với các Cụ rồi không còn ai biết nữa đâu)
Hôm nay 20 tháng 7 âm lịch, là kỵ nhật ông nội tôi... Giữa mùa đại dịch, ở đâu yên đấy, con cháu lòng thành có nén hương chén nước đơn sơ - nhưng là giỗ ông nên đơn sơ cũng phải có cút rượu dâng lên, tưởng nhớ ngày xưa những lúc nằm trong lòng nhìn ông uống rượu, nghe ông ngâm thơ...
Bồi hồi nhớ lại một lần tao ngộ.
Tháng 10 năm 1975, ngay sau giải phóng miền Nam, vì có chút "ưu ái" nên tôi được đi "công tác" vào Miền Nam loại sớm nhất, và ưu tiên số 1 tất nhiên là về thăm lại cố đô, nơi chôn nhau cắt rốn mà tôi đã ròi xa từ 28 năm trời.
Mà đã về Huế tất nhiên không thể không xuống thăm lại Cửa Thuận, nơi từng chất chứa bao nhiêu kỷ niệm đẹp của tuổi học trò ngây ngô. Và thế là tôi và vài người em họ (con các Cậu các Dì, hồi chiến tranh chống Mỹ ở lại trong Thành phố) chở nhau trên 3 chiếc Honda, vi vu về Thuận An.
Cửa Thuận hồi đó - nhất là từ sau Tết Mậu Thân - điêu tàn và hoang sơ lắm nên chúng tôi chỉ "tự túc" ăn chơi nhảy múa đến tầm 3 giờ chiều thì quay về và... khá đói. Ra khỏi bãi biển hơn 1 km thì đến một vạn chài có vẻ sầm uất, từ mấy quán nhỏ bên đường mùi mực nướng xộc lên mũi quá hấp dẫn: Bèn quyết định tấp dô một quán - thực ra là một quầy bày bán ngoài hàng hiên của một ngôi nhà nhỏ khá khang trang.
Chủ quán là một chị trung niên ngồi bận bịu nướng mực, rót trà cho khách nhưng trên chiếc chõng cuối hàng hiên còn có một cụ già tầm ngoài 70 đang lúi húi xếp cá phơi tôm gì đó, thỉnh thoảng nghênh nghênh hóng chuyện.
Thấy tôi mặc quần áo lính Miền Bắc - không phải quân giải phóng - nhưng lại nói chuẩn tiếng Huế "cột cờ", cụ già chợt hỏi: - " Nì, eng đồng chí, eng là bộ đội Bắc ngoài nớ răng lại noái tiếng xứ mềnh?" - "Dạ cháu cũng là dân Huế, năm 1947 vỡ mặt trận mới theo gia đình cơ quan ra Bắc rồi ở riết đến chừ mới về..." -" Rứa quê chú ở mô". Từ chỗ "đồng chí" đã được hạ cấp hay nâng cấp lên "chú"rồi! Tôi nói nhà mình ở Phường Thái Trạch trong Thành Nội, cụ hỏi kỹ càng hơn địa chỉ nhà - thẩm tra gì đây nhỉ ? - Nghe xong địa chỉ, cụ bỏ cả công việc, bước lại gần tôi và nói: -"Tui hỏi là có chuyện, chú đừng giận ông già tào lao - không biết là chú họ chi?". Nghe tôi trả lời là họ THÁI, cụ quá xúc động, đưa tay giữ chặt vai tôi kéo lại, như muốn nhìn thật kỹ. "- Rứa thì chú là con cháu cụ Quang thật rồi!" Nguyên trước đây ông nội tôi là Viện trưởng Viện Thái y - như kiểu Cục trưởng Cục Bảo vệ sức khỏe TW bây giờ ấy - (mà còn oai hơn nữa kia, vì trong chế độ phong kiến Nhà Vua rất trọng trí thức!) Ông nội tôi được sắc phong tước QUANG LỘC TỰ THIẾU KHANH, tứ phẩm hàm đường (- tương đương quan đầu tỉnh, ngạch cán bộ Vụ, Cục ngày nay, tra Wikipedia) nên mọi người tôn xưng là Cụ Quang. Tôi nhận đúng mình là đích tôn của Cụ. Thế là ông cụ quay ra bảo bà con dâu: -"Dẹp hàng họ, nghỉ bán bữa ni. Biểu mấy đứa chạy ù về xóm kêu mấy ông XXX bà YYY bên họ VĂN ra đây mau. Còn mấy cô chú, bữa ni nhất định phải ở lại làng, tui dắc vô tui chỉ cho coi, coi chi à: Coi công đức của ông nội chú đó!". Đã đến nước lôi cả ông nội tôi ra thì tôi ắt cũng phải "liều thân bồi đáp thôi". mà mình cũng đi chơi chứ đâu có công kia việc nọ đâu mà vội. Và cũng trong đêm đó, trong ngôi đình làng trang trọng mà âm u, mấy cụ già trong làng đã kể lại cho tôi câu chuyện sau đây.
... Đó là vào năm 1941. Cũng như nhiều gia đình trung lưu ở nội thành Huế, nhà tôi thường xuyên đặt hàng 1 ông người làng chài ngoài Cửa Thuận - tên thường gọi là ông Có - Văn Đức Có, sáng nào cũng gánh cá tươi chạy hết tốc lực một mạch suốt 12 km không nghỉ, vào bán cho từng nhà quen. Họ lấy cá từ những mẻ lưới khuya nên rạng sáng đã có cá về, thường là cá to và ngon nhất. Hôm đó, khi người nhà tôi ra mở cửa thì thấy ông Có gánh 1 bên là một thúng cá "mặn chặn" loại cá vụn con con chỉ ướp mắm hay nhà nghèo mới ăn, ra chợ ế ẩm khó bán - còn một bên thúng thì lại là một bé gái, hơn tôi3, 4 tuổi nhưng quắt queo như quả cà héo. Người làm nhà tôi là Ông Tính sẵng giọng hỏi: -" Bựa ni không có cá mú chi răng, mà còn rước cả con mắm tê đi mô rứa?" Ông Có rụt rè: -"Dạ biển động quá mà ghe xuồng thiếu bạn, bịnh hết không đi khơi được ... nhờ ông vô xin cho tôi gặp hai cụ (ông bà tôi) hay Thầy Cô (ba mẹ tôi) tôi có chuyện muốn thưa..." -"Thưa thưa cấy chi! Không có cá thì về. Ông, Bà, Thầy, Cô mô mà rảnh gặp mấy người!" Ông Có run rẩy, thất sắc, cô bé mặt tái xanh. Tôi đứng cạnh thấy không nỡ nên bảo ông Tính: -"Ông khoan đóng cổng, chờ tui vô hỏi Bà hay Mạ coi thử ra răng". Nói rồi, tôi vào nhà tìm bà nội tôi nói: -"Bà ơi, bữa ni ông Có lên mà không có cá thu cá chim chi mô. Mà bộ ông xanh xao vàng vọt lại gánh một chị quắt cà queo, bà ra coi có chi cho chị nớ ăn một chút, tội nghiệp quá!" Vừa lôi kéo bà tôi ra đến cổng thì cũng vừa gặp xe kéo ông tôi và chú Tâm mới về. Chú Tâm - Hồng Tâm - là đệ tử quan môn theo ông nội tôi học cả Nho, Y, Lý Số, theo "tiêu chuẩn" của ông nội, chú cũng được hưởng lương thơ lại (thư ký riêng) trong Viện Thái y.
Nhìn thấy 2 bố con ông Có trước cửa, ông tôi nói ngay: -" Tính đưa hai cha con vô nhà ngang, biểu thím Chút - thím nấu ăn trong nhà - dọn cơm nước chi đó cho họ ăn, sáng đến chừ chắc đói lắm rồi, ăn uống đi rồi tôi gặp hỏi chuyện".
Thì ra năm đó, năm 1941 có một đợt dich tả - Choléra - hoành hành dữ dội ở vùng ven biển Trị - Thiên, dân vừa đói vừa bênh, nhiều làng chết 7 còn 3. Làng ông Có cũng nhiều người bệnh chết, nhà ông có 4 người con, chỉ còn anh con trai 18 tuổi - đã đi bạn chài được - nhưng cũng vừa đổ bịnh, và cô bé Nghiêm 11 tuổi là sống sót còn thì bà vợ và 2 con đã "đi" rồi. Ông Có rơm rớm nước mắt: -" Mà ở nhà cũng không còn chi ăn, con ni ở nhà không đến 3 bảy 21 ngày nữa không bịnh cũng đói mà chết. Bữa ni con gánh cháu lên đây, cậy nhờ hai cụ với ông bà trồng cây phúc, cháu không dám nói bán con - thời buổi ni cho không ai thèm, dám mô nói chuyện bán - chỉ là trông chờ hai cụ và ông bà nuôi cháu như đứa ăn đứa ở trọn đời là cháu có phước rồi!" Ông tôi nói ngay: -" Chi mà đứa ăn đứa ở. Được rồi, coi như anh chị Hòa (ba mẹ tôi) coi như có thêm đứa con gái đầu lòng đi, nhận nó làm con nuôi. Nhưng này, vẫn cho cháu giữ họ Văn, sau này nếu muốn thì cứ về nhận tổ qui tông không ai làm khó".
Và thế là "tự nhiên" tôi có 1 bà chị gái hiền lành, tận tụy ở nhà tôi từ 1941, rồi sơ tán theo bà nội tôi về Nghệ An. Về sau ba mạ tôi gả chị cho một anh quê cùng xã, anh này rất hiền lành thật thà về sau đi bộ đội, được học trường sĩ quan và ra công tác rất tốt, Từ chú binh nhì, qua mấy chiến dịch Trung Hạ Lào, năm 1952 đã thăng lên đến cấp Thiếu tá nhưng năm 1954 đã hy sinh. Chị Nghiêm mới 35 tuổi, ở vậy nuôi nấng 3 đứa con đã trưởng thành, thằng cháu đầu được Ba mạ tôi đưa ra Hà Nội học, tốt nghiệp Đại học Nông Lâm, nay chị đã hàng đàn cháu chắt. Năm nay chị đã 90 tuổi mà còn đi lại được săm sắn, ngày giỗ ngày Tết mẹ con bà cháu vẫn "đội cỗ" sang nhà thờ họ Thái.
Nghe chuyện bệnh dịch - hồi đó truyền thông quá kém, chuyện xảy ra cách mươi lăm km mà ai cũng mù mờ - ông nội tôi bảo bà nôi và chú Tâm: -"Bà biểu đi mua cho tôi mấy chục cân gừng tươi. Tâm soạn hết "thuốc bánh chữa tả" dự trữ của nhà ra cho thầy, sáng mai con theo phương thuốc, ra tiệm bốc rồi về nhủ anh em xúm vào làm gấp 3, 400 liều. Anh Có ăn nghỉ rồi sáng mai sớm đưa thầy trò tôi về làng gấp, cứu bệnh như cứu hỏa. Tôi xuống xem tình hình thế nào sẽ nhắn tin ngay về để ở nhà chuẩn bị thêm dược phương rồi Tâm xuống giúp Thầy một tay". Nguyên trong nhà tôi vẫn có một phương thuốc gia truyền từ ông Cố 5 đời của tôi chuyên đặc trị tả, lỵ nhưng chưa bao giờ dùng số lượng lớn như thế. Chú Tâm đề nghị để chú ấy đi "tiền trạm" rồi báo tin về cho ông tôi. Nhưng ông nhất quyết không đồng ý và bảo:-" Dịch bệnh lớn thế này, quyết định phương án ban đầu cần nhanh chóng và rất chính xác. Thầy không phải không trọng tấm lòng của con nhưng kinh nghiệm và học vấn con chưa đủ; những lúc nước sôi lửa bỏng thế này, sai một ly, chậm một lúc là có thể mất đi hàng chục hàng trăm sinh mạng con ạ".
Thế rồi sáng mai ông và 2 đệ tử khăn gói lên đường theo ông Có về Cửa Thuận. Hai hôm sau ông Có lên đưa lá thư dặn dò chú Tâm lên Viện thông báo Ông vắng mặt một thời gian. (Thực ra tiếng là làm "Quan" nhưng ông tôi rất thoải mái, hàng ngày chỉ có chú Tâm "đi làm" trong Viện, có chuyện gì cần thì cho người tìm báo cho ông còn ông thì chỉ cả ngày đi thăm thú bệnh nhân, bạn bè... thường kéo cả "đích tôn thừa trọng" là tôi đây đi làm thơ, đối chữ với mấy bạn đồng liêu...) Trong thư ông còn dặn bổ sung thuốc thang rồi chú Tâm dẫn theo 4 sư đệ nữa lên đường đi "tiếp viện". Bà nội tôi ra sức nhét thêm đồ ăn "bồi dưỡng" cho ông... và lúc chiếc xe kéo lăn bánh, bà đứng thừ ra một lúc lâu, đôi mắt nhăn nheo ứa lệ: Hình như từ khi tôi bắt đầu hiểu biết, chưa thấy bao giờ bà khóc. Vài hôm sau, mấy bà quan to to - mệnh phụ phu nhân cả - đều là bệnh nhân cũ của ông tôi - kéo nhau đến nhà hỏi han và tự động tổ chức nhau quyên góp tiền nong, thứ thì giao cho đám đệ tử của ông nội tôi mua nguyên liệu, dược phẩm chế thuốc, thứ thì mua đồ ăn cử người mang về tận nơi cứu trợ.
Ông nội tôi đi biệt hàng tháng trời, dăm bảy hôm có đoàn cứu trợ về thì gửi lá thư mươi dòng, lại viết bằng chữ Hán nên có mỗi Ba tôi đọc được - lần nào bà nội tôi cũng cứ hỏi gặng mãi vì sợ nội dung có tin không lành mà Ba tôi dấu: Thật là tội nghiệp. Ba đứa em tôi còn quá bé, cô em kề tôi mới lên 5, một cô lên 3 còn 1 anh cu con nữa mới lọt lòng chưa biết gì. Chỉ có tôi và chi Nghiêm suốt ngày thẫn thờ, đi học về là tôi túm lấy chị hỏi : "Hôm nay có tin gì của Ông không?".
Gần 2 tháng sau ông nội tôi mới quay về. Một tháng sau nữa, một hôm có một đoàn người, da dẻ đen sạm cháy nắng, cứng quèo trong bộ áo khăn cả năm có lẽ chỉ mặc 1 lần (có người chắc chưa bao giờ mặc), Hai người xỏ đòn khiêng một con cá thu (hay cá ngừ gì đó), đuôi dài phết đất, chắc đến hơn vài chục kg, một gánh mực tươi...tiến vào đứng trong sân nhà tôi. Ba ông cụ râu bạc áo thụng tiến lên phủ phục xuống bậc thềm nhà tôi dập đầu: -"Tạ ơn Thầy, không có Thầy thì làng con đã bị xóa sổ..."
Tôi nhắc đến buổi lễ tạ ơn đầy xúc động đó thì ông chủ quán nói luôn: -"Nhưng hồi đó chú còn bé chưa biết, hôm đó chúng tôi còn xin được mạn phép Cụ nhà làm một việc nữa mà bây giờ tôi mới có dịp được mời cháu đích tôn của cụ xem lại..."
Vài cụ nữa cùng bước lên, dẫn tôi vào ngôi đình cổ kính: một ngôi đình 5 gian bề thế đứng hiên ngang hướng ra biển rộng. Trong hậu cung, trên bệ thờ trang nghiêm, cạnh bài vị thành hoàng Làng, có thêm một bài vị nữa tuy cũng đã cũ nhưng còn mới hơn tấm kia rất nhiều. Trên tấm bài vị đó gho rõ ràng Thụy danh, Tự hiệu của Ông nội tôi: THÁI CÔNG - CỔ VĂN NHÂN chi linh vị. (Ông nội tôi thụy danh là TỐ nhưng để tỏ lòng kính trọng, người ta ghi "chiết tự" chữ TỐ thành 3 bộ ghép lại là bộ Nhân, bộ Cổ và bộ Văn - 古文仁 - cái này bạn nào học Hán tự mới rõ, các bạn học tiếng Hoa giản thể bây giờ không hiểu đâu)
"-Sau cơn đại dịch để ghi nhớ công đức cụ Quang đã tái sinh cho làng, hội đồng làng nhất trí đồng lòng và cũng đã tâu xin bè trên cho phép thỉnh cụ Quang về làm ĐỒNG THÀNH HOÀNG cho làng chúng tôi.
Tôi đứng ngẩn ngơ vuốt ve tấm bài vị, tưởng như được vuốt lại chòm râu thân thiết của Ông tôi.
Đêm đó về .... và cũng nhiều đêm nữa, tôi không ngủ được... vì thấy mình còn quá hổ thẹn với tiền nhân!